Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm bởi đồng USD mạnh lên trong bối cảnh giới đầu tư vẫn quan ngại về cuộc khủng hoảng tài chính tại Thổ Nhĩ Kỳ. Dầu Brent Biển Bắc giảm 15 US cent xuống 72,46 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 16 US cent xuống 67,04 USD/thùng.
Chỉ số đồng USD - được coi là thước đo "sức khỏe" của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác - chạm mức cao nhất kể từ tháng 6/2017 so với các đồng tiền khác, tăng 0,32% lên 96,56 (điểm), sau khi đồng lira của Thổ Nhĩ Kỳ đã ổn định phần nào với các nhà đầu tư đã bớt lo ngại về khả năng cuộc khủng hoảng tại Thổ Nhĩ Kỳ sẽ lan ra và tác động tới kinh tế toàn cầu. Đồng USD mạnh lên thường khiến dầu, vốn được giao dịch bằng đồng tiền này, trở nên đắt đỏ hơn cho những khách hàng nắm giữ đồng tiền khác.
Số liệu từ Viện Xăng dầu Mỹ (API) cho thấy dự trữ dầu thô nước này bất ngờ tăng 3,7 triệu thùng trong tuần trước, trái ngược so với dự báo giảm 2,5 triệu thùng mà các chuyên gia phân tích đưa ra trước đó.
Nền kinh tế Trung Quốc đang có những dấu hiệu "hạ nhiệt" khi hoạt động đầu tư trong thời gian từ tháng 1-7/2018 và doanh số bán lẻ đều chậm lại
Tuy vậy, những lo ngại về tình trạng nguồn cung dầu từ các nhà sản xuất hàng đầu thế giới bị siết chặt đã phần nào hạn chế đà giảm của dầu. Tổ chức Các Nước Xuất khẩu dầu (OPEC) ngày 13/8 cho biết Saudi Arabia đã cắt giảm sản lượng. Hoạt động xuất khẩu từ Iran cũng được dự đoán là sụt giảm do Washington tái áp đặt các lệnh trừng phạt.
Trong khi đó, một số chuyên gia phân tích cho hay cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và tình trạng bất ổn trên các thị trường mới nổi có thể hạn chế nhu cầu năng lượng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng hồi phục từ mức thấp nhất gần 18 tháng vì
giới phân tích cho rằng kim loại quý này đã giảm giá quá sâu. Vàng giao ngay giá tăng nhẹ 0,04% lên 1.193,71 USD/ounce, trong khi vàng giao tháng 12/2018 tăng 1,8 USD (hay 0,2%) lên 1.200,7 USD/ounce.
Giá vàng cũng phải chịu nhiều “cơn gió ngược” kể từ đầu năm, trong đó bao gồm việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất, đồng USD mạnh lên, cũng như việc kim loại quý này đã không thể tận dụng cơ hội tăng giá trong bối cảnh có nhiều bất ổn địa chính trị trên toàn cầu. Thay vào đó, nhà đầu tư chuyển hướng sang trái phiếu chính phủ của Mỹ, đồng nghĩa với việc họ phải mua vào đồng USD.
Nhà phân tích Georgette Boelle tại ABN AMRO cho biết rất nhiều nhà đầu tư thấy thất vọng vì họ nghĩ rằng vàng sẽ là tài sản “trú ẩn an toàn” trong bối cảnh có những tranh chấp thương mại và tình hình căng thẳng tại thị trường Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng điều này đã không xảy ra và tính đến thời điểm hiện giờ, giá vàng đã giảm tới 8%.
Một số chuyên gia cho rằng vàng sẽ rơi xuống mức 1.150 USD/ounce trước khi nó có thể phục hồi, khi hiện có rất ít yếu tố có thể hỗ trợ giá kim loại quý này.
Nhập khẩu vàng vào Ấn Độ đã liên tiếp giảm trong những tháng đầu năm, và chỉ đảo chiều tăng vào tháng 7/2018 (tăng 44,2% so với cùng kỳ năm ngoái lên 75 tấn). Hãng tư vấn kim loại GFMS cho biết nhập khẩu vàng của nước này trong 7 tháng đầu năm nay giảm 28% so với cùng kỳ năm 2017 xuống còn 406,2 tấn. Tuy nhiên, Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) trong báo cáo công bố vào đầu tháng này nhận định nhu cầu vàng của Ấn Độ sẽ cải thiện trong nửa cuối năm nay sau khi giảm 6% trong 6 tháng đầu năm trong bối cảnh chính phủ nước này đang tiến hành các cải cách nhằm tăng thu nhập cho người nông dân và cải thiện sức mua tại khu vực nông thôn.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim phiên này tăng 0,3% lên 800.5 USD/ounce sau khi giảm 3,6% xuống mức thấp của ba tuần là 791,5 USD/ounce trong phiên 13/8; giá bạc cũng thoát khỏi mức thấp (14,94 USD/ounce) của 13 tháng hồi phiên trước và tăng 0,7% lên 15,05 USD/ounce trong phiên này; palađi tăng 0,6% lên 895,50 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do cuộc khủng hoảng đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ và nhu cầu tiêu thụ yếu từ Trung Quốc. Giá đồng tại London chốt phiên giảm 1,8% xuống mức 6.044 USD/tấn. Nhu cầu tiêu thụ đồng yếu là do tỷ lệ tăng đầu tư vào tài sản cố định của Trung Quốc thấp hơn dự kiến, chỉ đạt 5,5% trong 7 tháng đầu năm nay đồng thời lòng tin tiêu dùng giảm sút khi cuộc chiến thương mại Trung – Mỹ ngày càng căng thẳng.
Giá thép cây tại Thượng Hải tiếp tục tăng lên mức cao nhất trong hơn 6 năm do nhu cầu tiêu thụ cao nhờ chính sách thúc đẩy kinh tế của Chính phủ Trung Quốc. Giá thép cây giao tháng 10 tại Thượng Hải chốt phiên tăng 1,1% lên 4.327 CNY/tấn sau khi đạt mức 4.370 CNY(635 USD)/tấn - cao nhất kể từ tháng 4/2012 vào phiên sáng.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao tháng 12/2018 giảm 0,8 US cent tương đương 0,7% xuống 1,085 USD/lb; robusta giao tháng 9/2018 tăng 2 USD tương đương 0,1% lên 1.669 USD/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo tăng cao vào cuối phiên giao dịch do JPY yếu hơn so với USD sau khi giảm vào phiên sáng.Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo giao tháng 1/2018 chốt phiên tăng 0,2 JPY lên 171,9 JPY (1,55 USD)/kg, vẫn thấp hơn mức cao nhất ba tuần đạt được vào cuối tuần trước. Giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải giao tháng 1/2019 giảm 95 CNY xuống còn 12.345 CNY(1.794 USD)/tấn. Giá cao su tại Singapore giao tháng 9/2018 ổn định ở mức 134,40 Uscent/ kg.
Chính phủ Thái Lan đang trả tiền cho những người nông dân để ngừng trồng cao su trong nỗ lực nhằm tăng giá nông sản này. Nước này đang cố gắng giảm khoảng 80.000 ha/năm diện tích trồng cao su tự nhiên của quốc gia này trong vòng 5 năm tới. Theo Cơ quan quản lý cao su Thái Lan, kế hoạch này sẽ giảm 40.000 – 50.000 tấn/năm sản lượng cao su tự nhiên trên cả nước.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
66,04
|
-0,16
|
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
72,46
|
-0,15
|
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
48.440,00
|
-180,00
|
-0,37%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,95
|
-0,01
|
-0,20%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
202,81
|
-0,60
|
-0,29%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
212,32
|
-0,55
|
-0,26%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
650,25
|
-4,50
|
-0,69%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
66.070,00
|
-220,00
|
-0,33%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.199,40
|
-1,30
|
-0,11%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.257,00
|
+7,00
|
+0,16%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
15,01
|
-0,04
|
-0,29%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
53,50
|
0,00
|
0,00%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
798,38
|
-3,24
|
-0,40%
|
Palladium giao ngay
|
USD/ounce
|
899,15
|
-0,21
|
-0,02%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
267,60
|
-0,60
|
-0,22%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.044,00
|
-109,50
|
-1,78%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.070,00
|
-12,00
|
-0,58%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.454,00
|
-29,00
|
-1,17%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.020,00
|
-375,00
|
-1,93%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
376,50
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
559,75
|
-1,50
|
-0,27%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
266,00
|
-2,50
|
-0,93%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,18
|
-0,01
|
-0,15%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
879,25
|
-0,50
|
-0,06%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
338,00
|
+0,20
|
+0,06%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
28,56
|
-0,05
|
-0,17%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
507,30
|
-0,30
|
-0,06%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.150,00
|
+2,00
|
+0,09%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
108,50
|
-0,80
|
-0,73%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
10,34
|
+0,04
|
+0,39%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
155,75
|
-2,75
|
-1,74%
|
Bông
|
US cent/lb
|
83,11
|
+0,07
|
+0,08%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
444,90
|
+15,00
|
+3,49%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
172,00
|
+0,10
|
+0,06%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,37
|
+0,02
|
+1,18%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet