Trên thị trường năng lượng, giá dầu dao động nhẹ trong bối cảnh giới đầu tư đánh giá thông tin về các nhà sản xuất dầu mỏ hàng đầu thế giới có khả năng sẽ gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng khai thác và tình hình xăng dầu dự trữ của Mỹ.
Dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 3/2017 trên sàn New York tăng 25 US cent lên 53,36 USD/thùng, giá dầu Brent giao tháng 4/2017 tại London giảm 11 US cent xuống 55,65 USD/thùng.
Các quốc gia trong và ngoài Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) có thể sẽ xem xét khả năng kéo dài thỏa thuận cắt giảm sản lượng đã có hiệu lực từ ngày 1/1/2017, và có thể sẽ cắt giảm sản lượng khai thác thêm nữa nếu lượng dầu thô dự trữ của thế giới chưa giảm xuống mức mục tiêu.
Bộ trưởng Năng lượng Nga Alexander Novak cho biết cuối tháng 4 tới, nước này sẽ thực hiện cắt giảm tối đa sản lượng dầu đúng theo thỏa thuận đã nhất trí với OPEC hồi cuối năm ngoái. Điều này đồng nghĩa với việc sản lượng dầu của Nga trong tháng 5/2016 sẽ giảm 300.000 thùng/ngày so với mức hồi tháng 10/2016, khi sản lượng dầu mỏ của nước này cao kỷ lục 11,2 triệu thùng/ngày.
Tuy vậy, các nhà đầu tư vẫn lo ngại rằng lượng xăng dầu dự trữ ở Mỹ tăng lên sẽ làm giảm hiệu quả của thỏa thuận cắt giảm sản lượng khai thác mà các nước trong và ngoài OPEC đã đạt được trong nỗ lực nhằm giảm nguồn cung dư thừa trên toàn cầu.
Trước đó ngày 15/2 , Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết trong tuần tính đến ngày 10/2 dự trữ dầu thô của Mỹ đã tăng 9,5 triệu thùng lên 518,1 triệu thùng, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong lúc lượng xăng dự trữ tăng 2,8 triệu thùng, ngược với dự báo giảm 752.000 thùng trước đó.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do USD yếu đi và hoạt động tăng cường mua vàng của các nhà đầu tư trước những lo ngại về tình hình xáo động chính trị tại châu Âu và Mỹ.
Vàng giao ngay tăng 0,7% lên 1.240,86 USD/ounce; vàng giao sau tăng 0,7% lên 1.241,60 USD/ounce.
Những quan ngại về các chính sách mới của tân Tổng thống Mỹ Donald Trump và các cuộc bầu cử tại Hà Lan, Pháp và Đức trong năm nay đã đẩy giá vàng lên mức đỉnh 1.244,67 USD/ounce ngày 8/2. Cố vấn kinh tế cấp cao Jeffrey Nichols của Rosland Capital dự báo giá vàng có thể vọt lên trên mốc 1.300 USD/ounce.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,5% lên 18,07 USD/ounce; còn giá bạch kim giảm 0,6% xuống 1.009,45 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, bất ổn về nguồn cung đẩy giá nickel lên mức cao kỷ lục trong vòng 2 tháng.
Nickel hợp đồng tham chiếu trên sàn London giá tăng 1,4% lên 11.070 USD/tấn, mức cao nhất kể từ ngày 12/2. 2/3 nguồn cung nickel toàn cầu được sử dụng trong ngành thép không gỉ.
Philippines buộc hãng sản xuất hàng đầu nước này tạm dừng khai thác, đồng thời quyết định huỷ những dự án mỏ chưa khai thác.
Với nông sản, cà phê robusta tăng do các nhà đầu cơ giảm áp lực bán ra và dự báo Brazil sẽ cho phép nhập khẩu lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ.
Robusta giao tháng 5 trên sàn London tăng 23 USD hay 1,07% lên 2.171 USD/tấn, trong khi đó arabica giao tháng 5 trên sàn New York cũng tăng 0,90 US cent hay 0,61% lên 1,4785 USD/lb.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
53,36
|
+0,25
|
+0,47%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
55,65
|
-0,11
|
-0,81%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
38.400,00
|
-390,00
|
-1,01%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,86
|
-0,06
|
-2,22%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
155.00
|
+0.21
|
+0.14%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
151,63
|
-3,16
|
-2,04%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
161,99
|
-1,06
|
-0,65%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
490,25
|
-3,75
|
-0,76%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.242,80
|
+9,70
|
+0,79%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.501,00
|
0,00
|
0,00%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
18,10
|
+0,14
|
+0,76%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
65,50
|
0,00
|
0,00%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.015,50
|
+4,15
|
+0,41%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
792,95
|
+3,60
|
+0,46%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
273,20
|
-2,95
|
-1,07%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.067,00
|
+46,00
|
+0,76%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.913,00
|
+26,00
|
+1,38%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.870,00
|
-33,00
|
-1,14%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.880,00
|
-45,00
|
-0,23%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
385,75
|
-0,25
|
-0,06%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
474,25
|
+6,00
|
+1,28%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
252,75
|
+4,25
|
+1,71%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,42
|
+0,03
|
+0,27%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.069,50
|
-2,25
|
-0,21%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
353,10
|
+2,00
|
+0,57%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,80
|
-0,42
|
-1,23%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
532,00
|
+0,10
|
+0,02%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.027,00
|
+40,00
|
+2,01%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
147,90
|
+0,95
|
+0,65%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
20,14
|
-0,29
|
-1,42%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
174,70
|
+1,70
|
+0,98%
|
Bông
|
US cent/lb
|
77,13
|
-0,15
|
-0,19%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
366,60
|
+0,90
|
+0,25%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
306,60
|
-9,60
|
-3,04%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,55
|
0,00
|
-0,06%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet