Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng gần 2% lên mức cao nhất trong 6 tuần sau khi Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết mức dự trữ dầu thô, xăng và một số chế phẩm chưng cất tính theo tuần của Mỹ giảm nhiều hơn dự đoán.
Đóng cửa phiên giao dịch, gía dầu Brent Biển Bắc giao tháng 9 tăng 86 US cent tương đương hay 1,8% lên 49,70 USD/thùng, trong khi giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 8 tăng 72 US cent tương đương 1,6% lên 47,12 USD/thùng. Đây đều là các mức cao nhất của cả hai loại kể từ ngày 6/6/2017.
EIA cho biết lượng dầu thô dự trữ của Mỹ đã giảm 4,7 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 14/7, vượt dự đoán giảm 3,2 triệu thùng trong một cuộc khảo sát trước đó của hãng tin Anh Reuters. Lượng dự trữ các chế phẩm chưng cất và xăng giảm lần lượt 2,1 triệu thùng và 4,4 triệu thùng. Trước đó, trong cuộc khảo sát của Reuters, các nhà phân tích đã dự đoán các chế phẩm chưng cất tăng 1,2 triệu thùng, còn xăng chỉ giảm 0,7 triệu thùng.
Trong khi đó, nguồn cung dầu từ Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) vẫn cao. Sản lượng gia tăng của Nigeria và Libya đã làm dấy lên những nghi ngại đối với những nỗ lực của OPEC nhằm giảm tình trạng dư cung.
Về nhu cầu, hãng nghiên cứu BMI Research cảnh báo rằng việc sử dụng dầu thô gần mức cao kỷ lục trong tháng 6 của các nhà máy lọc dầu tạiTrung Quốc có thể sẽ giảm xuống trong nửa cuối năm 2017.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng quay đầu giảm sau 3 phiên tăng liên tiếp trước đó do đồng USD hồi phục nhẹ 0,2% từ mức thấp nhất trong vòng 10 tháng.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,05% xuống 1.241,35 USD/ounce, trong khi giá vàng giao tháng 8/2017 tăng nhẹ 0,01% lên 1.242 USD/ounce.
Việc Mỹ đang trong lộ trình thắt chặt chính sách tiền tệ đã khiến giá vàng biến động không nhiều trong quý II vừa qua. Ngoài Mỹ, cũng xuất hiện tín hiệu cho thấy các ngân hàng trung ương tại châu Âu và một số nước khác đang có ý thắt chặt chính sách tiền tệ là nhân tố đang gây sức ép lên giá vàng.
Số liệu mới nhất cho thấy lượng vàng do Quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust nắm giữ giảm 5,6 tấn xuống 821,45 tấn trong ngày 18/7, ghi dấu mức thấp kể từ đầu tháng 2/2017.
Về những kim loại khác, giá bạc phiên này tăng 0,2% lên 16,28 USD/ounce, rời khỏi mức đỉnh của hai tuần ghi được trước đó là 16,36 USD/ounce; giá bạch kim giảm 0,6% xuống 916,25 USD/ounce, trong khi giá palađi cũng giảm tương tự, xuống 858,75 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường lên mức cao kỷ lục 7 tuần do hoạt động mua mạnh trong bối cảnh sương giá ở Brazil. Đường thô giao tháng 10 giá tăng 0,4 US cent tương đương 2,84% lên 14,5 US cent/lb, sau khi có lúc lên mức 14,6 US cent, cao nhất kể từ ngày 1/6. Đường trắng giao tháng 10 giá tăng 8,6 USD tương đương 2,21% lên 398,60 USD/tấn.
Cà phê cũng tăng giá. Arabica giao tháng 9 giá tăng 0,9 US cent tương đương 0,67% lên 1,358 USD/lb, trong phiên có lúc giá đạt mức cao nhất 10 tuần là 1,3595 USD. Robusta giao tháng 9 giá giảm 21 USD tương đương 0,99% lên 2.110 USD/tấn.
Các thương gia đang theo dõi sát dự báo về thời tiết lạnh ở Brazil, nước sản xuất cà phê lớn nhất thế giới.
Giá lúa mì cũng tăng mạnh lên mức cao nhất trong vòng nhiều năm do hạn hán đang làm ảnh hưởng đến các vụ mùa lúa mì chất lượng cao trên toàn cầu, đẩy giá mặt hàng này lên mức cao nhất trong nhiều năm qua khi các nhà sản xuất bánh mì tranh giành nguồn cung.
Hạn hán ở khu vực Nam Âu đang đe dọa làm giảm sản lượng ngũ cốc ở Italy và nhiều vùng ở Tây Ban Nha xuống mức thấp nhất trong ít nhất 20 năm qua.
Diễn biến của thị trường lúa mỳ sẽ phụ thuộc một phần vào kết quả vụ xuân ở Mỹ và Canada, vốn thường có hàm lượng protein cao, và liệu hạn hán ở Australia có tiếp tục kéo dài. Các thương gia và nhà phân tích dự kiến sẽ cắt giảm sản lượng lúa mỳ của Australia 20% so với mức dự báo chính thức đã đưa ra trước đó. Sản lượng lúa mì năm 2017 của Mỹ dự kiến thấp kỷ lục kể từ năm 1919 do tình trạng dư thừa trên thị trường ngũ cốc sau bốn vụ mùa bội thu trước đó đã đẩy giá xuống thấp và qua đó khiến nông dân chuyển hướng sang trồng các trồng khác như đậu nành và ngô.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
47,12
|
+0,72
|
+0,08%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
49,70
|
+0,12
|
+1,6%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
34.520,00
|
+550,00
|
+1,62%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,07
|
+0,01
|
+0,23%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
161,62
|
-0,07
|
-0,04%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
155,16
|
+0,02
|
+0,01%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
458,50
|
+2,50
|
+0,55%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
50.160,00
|
+440,00
|
+0,88%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.239,70
|
-2,30
|
-0,19%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.451,00
|
-9,00
|
-0,20%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,25
|
-0,05
|
-0,32%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
58,70
|
+0,30
|
+0,51%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
921,21
|
+0,25
|
+0,03%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
856,94
|
-3,76
|
-0,44%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
271,25
|
+0,20
|
+0,07%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.966,50
|
-40,50
|
-0,67%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.920,00
|
-11,00
|
-0,57%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.747,00
|
-47,00
|
-1,68%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
20.095,00
|
+95,00
|
+0,48%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
383,25
|
+0,75
|
+0,20%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
501,25
|
+1,75
|
+0,35%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
296,00
|
+2,00
|
+0,68%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,76
|
-0,10
|
-0,88%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.013,75
|
+1,25
|
+0,12%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
334,10
|
-0,10
|
-0,03%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,98
|
+0,10
|
+0,30%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
507,50
|
0,00
|
0,00%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
1.944,00
|
+33,00
|
+1,73%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
135,80
|
+0,90
|
+0,67%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
14,50
|
+0,40
|
+2,84%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
125,50
|
-1,20
|
-0,95%
|
Bông
|
US cent/lb
|
68,28
|
+0,17
|
+0,25%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
388,80
|
+3,30
|
+0,86%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
213,10
|
+5,40
|
+2,60%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,54
|
0,00
|
-0,32%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet