Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng sau thông tin dự trữ của Mỹ giảm và đồng USD yếu đi.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu thô ngọt nhẹ giao tháng 10/2018 tăng 1,27 USD lên 71,12 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 11/2018 tăng 0,47% lên 79,4 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết dự trữ dầu của Mỹ đã giảm 2,1 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 14/9 xuống mức thấp nhất kể từ tháng 2/2015.
Chỉ số đồng USD, thước đo của đồng bạc xanh so với sáu đồng tiền chủ chốt trên thị trường, đã giảm 0,11. Đồng USD suy yếu so với đồng euro và rơi xuống mức thấp nhất trong gần ba năm so với đồng AUD, do các nhà đầu tư tạm ngừng mua USD giữa những đợt áp thuế mới nhất của Bắc Kinh và Washington.
Gần đây các nhà đầu tư lo ngại về nguồn cung dầu của Iran sẽ sụt giảm và sản lượng dầu của Saudi Arabia tăng thấp hơn mức dự kiến.
Về tương lai của thị trường dầu, Bộ trưởng Năng lượng Nga Alexander Novak cho rằng việc giá dầu dao động ở mức cao trong khoảng 70 – 80 USD/thùng chỉ là tạm thời. Về dài hạn, giá mặt hàng này sẽ vào khoảng 50 USD/thùng và bị chi phối chủ yếu bởi các lệnh trừng phạt. Ông khẳng định rằng thị trường dầu toàn cầu vẫn dễ bị tổn thương vì căng thẳng địa chính trị leo thang, nguồn cung tại nhiều khu vực giảm và việc Nga sẵn sàng tăng sản lượng.
Sản lượng dầu thô của Nga hiện đạt khoảng 11,21 triệu thùng/ngày, gần mức kỷ lục từ sau thời kỳ Liên Xô. Tuy nhiên, ông Novak cảnh báo rằng sản lượng có thể giảm mạnh trong vài năm tới nếu chính phủ không tìm ra cách để hỗ trợ ngành công nghiệp này. Hiện tại, sản lượng dầu ở Tây Siberia, khu vực sản xuất dầu chính của Nga, đang giảm dần.
Theo dự báo của ông Novak, sản lượng dầu năm 2018 của Nga sẽ đạt tổng 553 triệu tấn (tương đương 11,105 triệu thùng/ngày), và sẽ đạt đỉnh 570 triệu tấn vào năm 2021.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng do USD yếu đi trong bối cảnh giới đầu tư bắt đầu quan ngại về tác động của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đối với nền kinh tế Mỹ...
Giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.203,68 USD/ounce, vàng giao tháng 12/2018 tăng 5,4 USD (0,5%) lên 1.208,30 USD/ounce.
Giá vàng đã giảm 12% giá trị kể từ tháng Tư do tranh chấp gia tăng và lãi suất của Mỹ được nâng dần lên, với các nhà đầu tư mua vào khá nhiều đồng USD với niềm tin rằng Mỹ sẽ thiệt hại ít hơn trong cuộc tranh chấp hiện nay.
Về những kim loại quý khác, giá palađi giao ngay tăng 2,4% lên 1.033,25 USD/ounce sau khi có lúc đạt mức cao nhất kể từ ngày 19/4 là 1.041,70 USD/ounce; bạch kim tăng 1% lên 817,74 USD/ounce sau khi có thời điểm trong phiên đạt mức cao nhất kể từ ngày 13/8/2018 là 823 USD/ounce; trong khi giá bạc giao ngay tăng 0,8% lên 14,24 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng tăng lên mức cao nhất trong 3 tuần, do đồng USD suy yếu sau đợt áp thuế quan thương mại Mỹ - Trung mới không mạnh như dự kiến trước đây. Đồng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) kết thúc phiên tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 29/8 tại 6.121 USD/tấn tăng 0,6%. Trong khi đó, giá kẽm đóng cửa tăng 3% lên 2.434 USD/tấn, tăng mạnh nhất trong hơn 1 tháng.
Các kim loại cơ bản đã giảm trong năm nay, phần lớn do lo sợ xung đột thương mại Mỹ - Trung có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu và phá hoại nhu cầu.
Trung Quốc không sợ "các biện pháp cực đoan" mà Mỹ đang thực hiện trong cuộc chiến thương mại của họ và sẽ sử dụng tranh chấp như một cơ hội để thay thế hàng nhập khẩu, thúc đẩy nội địa hóa và đẩy nhanh phát triển các sản phẩm công nghệ cao.
Dự trữ đồng tăng lên 152.750 tấn nhưng vẫn giảm 55% từ mức cao nhất năm 2018 đã đạt được hồi tháng 3/2018. Dự trữ kẽm trên sàn LME gần mức thấp nhất kể từ tháng 4/2018, trong khi tồn trữ kẽm tại Thượng Hải vẫn hầu như trên mức thấp nhất một thập kỷ. Theo tổ chức Nghiên cứu chì và kẽm quốc tế ILZSG thị trường kẽm toàn cầu thiếu hụt lên tới 32.500 tấn trong tháng 7/2018 từ 14.200 tấn trong tháng 6/2018.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao tháng 12/2018 tăng 0,85 US cent tương đương 0,9% lên 96,70 US cent/lb; robusta giao tháng 11/2018 giảm 5 USD tương đương 0,3% xuống 1.487 USD/tấn. Các nhà đầu tư tiếp tục bán mạnh mặt hàng cà phê.
Đường thô kỳ hạn tháng 3/2019 tăng 0,14 US cent hay 1,2% lên 11,64 US cent/lb khi đóng cửa, sau khi giảm 7,6% trong 3 phiên qua. Giá tăng một phần bởi đồng real của Brazil mạnh lên, đạt mức cao nhất trong hơn một tuần. Đồng real mạnh lên làm giảm thu nhập với các hàng hóa định giá bằng đồng USD, không khuyến khích các nhà sản xuất bán ra. Điều này khiến giá tăng trở lại sau chuỗi giảm giá mạnh trong những ngày gần đây bởi lo lắng về khả năng xuất khẩu tăng vọt từ Ấn Độ.
Đường trắng kỳ hạn tháng chốt phiên tăng 1,1 USD hay 0,3% lên 330,2 USD/tấn.
Giá cao su tại Tokyo kết thúc phiên giảm xuống gần mức thấp nhất 2 năm, trong bối cảnh lo ngại xung đột thương mại leo thang có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu và nhu cầu cao su.
Trung Quốc và Mỹ lún sâu vào một cuộc chiến tranh thương mại sau khi Bắc Kinh bổ sung 60 tỷ USD sản phẩm từ Mỹ vào danh sách thuế quan nhập khẩu để trả đũa với kế hoạch áp thuế mới nhất của Tổng thống Donald Trump.
Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 2/2019 chốt phiên giảm 0,2 JPY xuống 165,9 JPY (1,5 USD)/kg, trong phiên có lúc giá đã đạt 167 JPY/kg.
Nhật Bản hy vọng có thể tránh được các khoản thuế quan cao với xuất khẩu ô tô của mình và tránh được các yêu cầu của Mỹ đối với một thỏa thuận thương mại tự do song phương tại vòng đàm phán thương mại thứ hai với Mỹ mà có thể diễn ra trong tháng này.
Các sản xuất ô tô và cung cấp linh kiện lớn nhất Nhật Bản cũng lo lắng họ sẽ bị ảnh hưởng lớn nếu Washington tuân theo các đề xuất tăng thuế với ô tô và phụ tùng lên 25%.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
71,12
|
+1,27
|
+1,8%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
79,40
|
+0,37
|
+0,5
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
52.090,00
|
+320,00
|
+0,62%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,91
|
+0,00
|
+0,14%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
202,55
|
+0,48
|
+0,24%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
225,11
|
+0,45
|
+0,20%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
692,50
|
+4,50
|
+0,65%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
70.330,00
|
+200,00
|
+0,29%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.209,90
|
+1,60
|
+0,13%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.334,00
|
+3,00
|
+0,07%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
14,33
|
+0,05
|
+0,32%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
51,60
|
+0,20
|
+0,39%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
824,56
|
+0,51
|
+0,06%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.038,82
|
+1,00
|
+0,10%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
273,55
|
+0,60
|
+0,22%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.121,00
|
+35,00
|
+0,58%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.026,00
|
-9,00
|
-0,44%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.434,00
|
+85,00
|
+3,62%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
18.870,00
|
-105,00
|
-0,55%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
345,00
|
-0,75
|
-0,22%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
520,75
|
-1,75
|
-0,33%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
250,00
|
+0,75
|
+0,30%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,97
|
+0,17
|
+1,74%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
827,00
|
-3,00
|
-0,36%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
308,70
|
-0,50
|
-0,16%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
27,44
|
-0,06
|
-0,22%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
486,00
|
-1,00
|
-0,21%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.195,00
|
-47,00
|
-2,10%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
96,70
|
+0,85
|
+0,89%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
11,64
|
+0,14
|
+1,22%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
146,60
|
-0,20
|
-0,14%
|
Bông
|
US cent/lb
|
78,80
|
+0,08
|
+0,10%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
347,20
|
-0,90
|
-0,26%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
168,20
|
+2,30
|
+1,39%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,25
|
0,00
|
-0,40%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet