Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ giao tháng 1/2017 trên sàn New York tăng 0,11 USD lên 52,23 USD/thùng, trong khi dầu Brent giao tháng 2/2017 trên sàn London tăng 0,43 USD lên 55,35 USD/thùng.
Các nhà phân tích trong cuộc thăm dò mới đây của Reuters dự báo lượng dầu lưu kho tại Mỹ giảm 2,4 triệu thùng trong tuần trước. Trong khi đó, Viện Dầu khí Mỹ dự báo con số này có thể lên tới 4,1 triệu thùng.
Trên thực tế, hầu hết các kho dự trữ dầu tại Mỹ đều giảm trong những tuần trước nhưng số liệu ghi nhận trên cả nước lại tăng vì đột biến tại kho lưu trữ lớn ở Cushing, Oklahoma. Điều này có thể sẽ không xuất hiện trong báo cáo công bố ngày 21/12.
Mặc dù đồng USD lại một lần nữa chạm đỉnh 14 năm nhưng giá dầu Brent và WTI đều giữ được sắc xanh. Đồng USD tăng giá thường tác động tiêu cực tới giá dầu bởi điều đó khiến loại hàng hóa này trở nên đắt đỏ hơn một cách tương đối cho các nhà đầu tư sử dụng đồng tiền khác.
Các nhà đầu tư cho biết họ sẽ hạn chế giao dịch dần cho tới kỳ nghỉ lễ Giáng sinh và Năm mới sắp tới. Điều này có thể chặn đà tăng của giá dầu và duy trì triển vọng ảm đạm từ nay tới đầu năm sau.
Thỏa thuận đóng băng lịch sử của Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu lửa (OPEC) và các nước khác giúp giá dầu có thời điểm đạt mức cao nhất trong 17 tháng qua. Năm 2016 có thể sẽ là năm đầu tiên giá dầu Brent kết thúc năm trong sắc xanh kể từ năm 2012.
Bộ trưởng Năng lượng Nga – ông Alexander Novak – cho biết việc kéo dài thỏa thuận là hoàn toàn có thể trong trường hợp cần thiết.
Theo báo cáo công bố cuối ngày 19/12, xuất khẩu dầu thô tại Saudi Arab giảm 176.000 thùng/ngày trong tháng 10 nhưng xuất khẩu sản phẩm tinh chế thì lại tăng bù lại nên tác động còn rất hạn chế.
Tại châu Á, công suất lọc dầu bổ sung đang tăng mạnh và dự kiến đạt đỉnh 3 năm vào năm sau, qua đó nhu cầu nhập khẩu dầu mỏ được thúc đẩy. Đây là thị trường quan trọng nhất của Saudi Arab nói riêng và OPEC nói chung. Theo ước tính, nếu châu Á tăng 1,5% công suất lọc dầu, các quốc gia sẽ cần tới gần 29 triệu thùng/ngày.
Dự kiến, Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ (EIA) sẽ công bố thống kê về dự trữ dầu mỏ của nước này trong ngày hôm nay Thứ Tư 21/12. Theo kết quả khảo sát của hãng tin Anh Reuters, các nhà phân tích thị trường dự đoán lượng dự trữ dầu của Mỹ có thể giảm 2,4 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 16/12.
Các nhà đầu tư cho biết họ bắt đầu điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình trước mùa Giáng sinh và Năm mới sắp tới. Do vậy, nếu không xuất hiện thông tin bất ngờ nào tác động đến giá cả thì các thị trường dự kiến sẽ trầm lắng trong tuần này.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do đồng USD tăng mạnh tăng và triển vọng kinh tế Mỹ sáng lên. Các tai nạn chết người tại Thổ Nhĩ Kỳ và Đức không đủ để kéo giá vàng lên.
Giá vàng giao ngay giảm 0,7% xuống 1.131,18 USD/ounce sau khi đã có lúc giảm xuống 1.125,23 USD/ounce trong cùng phiên, vàng giao tháng 2/2017 cũng giảm 0,8% và chốt phiên ở mức 1.133,60 USD/ounce.
Đồng USD tăng lên gần mức cao nhất 14 năm sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) – bà Janet Yellen – tái khẳng định khả năng tăng tốc độ bình thường hóa lãi suất vào năm 2017.
Lãi suất tiếp tục tăng đồng nghĩa với việc đồng USD có cơ sở để tăng giá, khiến những mặt hàng giao dịch bằng đồng tiền này (như vàng) đắt hơn tương đối đối với các nhà đầu tư sử dụng đồng tiền khác.
Giới đầu tư cũng đang lạc quan hơn về triển vọng tăng trưởng của kinh tế toàn cầu. Điều này thể hiện bằng việc lượng vàng do quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust nắm giữ đã giảm hơn 13% kể từ ngày 9/11 đến nay.
Nhà phân tích Robin Bhar của Societe Generale cho biết giá vàng chịu tác động tiêu cực nếu nền kinh tế Mỹ và toàn cầu tăng trưởng tốt, đồng USD tăng giá, chứng khoán tăng hay lãi suất trái phiếu tăng. Theo ông Bhar, việc Fed tăng tốc độ bình thường hóa lãi suất nằm trong dự kiến của thị trường nhưng những sự kiện tiêu cực tại Berlin và Thổ Nhĩ Kỳ không thể kéo thị trường lên lại là một điều khá bất ngờ.
Một yếu tố khác cũng gây sức ép lên giá vàng là nhu cầu từ một trong những thị trường tiêu thụ vàng lớn nhất thế giới là Ấn Độ đi xuống, chủ yếu do chính sách thu hồi những đồng tiền mệnh giá lớn của chính phủ nước này.
Nhu cầu tiêu thụ vàng miếng tại thị trường số 1 - Ấn Độ - đang không đạt được như kỳ vọng bởi chính phủ nước này tìm cách hạn chế người dân sử dụng tiền mặt. Điều này cản trở không nhỏ tới quá trình giao dịch, thương mại nói chung của quốc gia đông dân số 2 thế giới.
Với những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,6% xuống mức 15,84 USD/ounce. Trước đó có thời điểm giá bạc rơi xuống mức thấp nhất kể từ tháng 4 (15,74 USD/ounce). Giá bạch kim giảm 0,6% xuống mức 911,49 USD/ounce. Giá paladin giảm 1,2% xuống mức 669,1 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, cà phê quay đầu giảm sau một phiên tăng giá mạnh. Tuy nhiên, giá vẫn được hỗ trợ do vụ thu hoạch của Việt Nam bị chậm do mưa.
Robusta giao tháng 3 giảm 6 USD hay 0,3% xuống 2.123 USD/tấn, chỉ thấp hơn chút ít so với mức cao nhất 1 tháng là 2.135 USD/tấn ngày thứ Hai.
Arabica giao tháng 3 giảm 0,4% hay 0,3% xuống 1,4385 USD/lb.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
53,23
|
+0,11
|
+0,53%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
55,34
|
+0,43
|
+0,42%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
40.100,00
|
+620,00
|
+1,57%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,32
|
+0,05
|
+1,65%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
160,00
|
+0,64
|
+0,40%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
167,62
|
+0,74
|
+0,44%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
490,50
|
-1,00
|
-0,20%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
49.160,00
|
+710,00
|
+1,47%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.132,70
|
-0,90
|
-0,08%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.277,00
|
-7,00
|
-0,16%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,03
|
-0,09
|
-0,54%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
60,20
|
+0,10
|
+0,17%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
917,89
|
-4,57
|
-0,50%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
664,42
|
-3,06
|
-0,46%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
251,55
|
+1,30
|
+0,52%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.502,00
|
+6,00
|
+0,11%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.721,00
|
+9,00
|
+0,53%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.637,00
|
+30,00
|
+1,15%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
20.920,00
|
-280,00
|
-1,32%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
350,75
|
+0,50
|
+0,14%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
403,75
|
+0,50
|
+0,12%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
223,25
|
-0,50
|
-0,22%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,72
|
0,00
|
-0,05%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.019,50
|
+3,75
|
+0,37%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
313,70
|
+0,70
|
+0,22%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
36,48
|
+0,13
|
+0,36%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
521,50
|
+0,40
|
+0,08%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.256,00
|
-47,00
|
-2,04%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
143,85
|
-0,40
|
-0,28%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
18,25
|
+0,02
|
+0,11%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
198,55
|
+2,25
|
+1,15%
|
Bông
|
US cent/lb
|
69,43
|
+0,09
|
+0,13%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
319,90
|
+3,00
|
+0,95%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
271,30
|
+4,60
|
+1,72%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,53
|
-0,02
|
-1,16%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg