menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 24/4/2019: Giá dầu tăng mạnh, vàng giảm sâu

12:00 24/04/2019

Vinanet -Phiên 23/4/2019 trên thị trường quốc tế, giá dầu tiếp tục tăng mạnh kéo giá đường tăng theo. Trái lại, vàng xuống mức thấp nhất 4 tháng.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng lên mức cao nhất trong vòng 6 tháng trong bối cảnh Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) sẵn sàng nâng sản lượng nếu cần thiết trước khi xuất hiện bất kỳ sự thiếu hụt nào sau khi Mỹ chấm dứt quy chế miễn trừ lệnh trừng phạt cho các khách hàng mua dầu của Iran.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 75 US cent (1,1%) lên 66,3 USD/thùng, sau khi có lúc chạm mức cao nhất kể từ ngày 31/10/2018 là 66,6 USD/thùng lúc giữa phiên. Giá dầu Brent Biển Bắc tăng 47 US cent (0,6%) lên 74,51 USD/thùng, trước đó có lúc chạm 74,73 USD/thùng, mức cao nhất kể từ ngày 1/11/2018.
Dự báo sản lượng dầu tại Saudi Arabia, nhà xuất khẩu dầu hàng đầu thế giới đồng thời là thành viên chủ chốt trong OPEC, sẽ tăng lên trong tháng Năm, nhưng vẫn nằm trong mục tiêu sản xuất mà các nước trong và ngoài OPEC đề ra/cam kết. Bên cạnh đó, việc tăng sản lượng của Saudi Arabia không liên quan đến các lệnh trừng phạt của Iran. Tổ chức này dự kiến sẽ nhóm họp vào tháng Sáu tới để thảo luận về chính sách sản lượng.
Ngày 22/4, Mỹ đã quyết định chấm dứt quy chế miễn trừ đối với 8 khách hàng mua dầu lớn nhất của Iran, trong đó hầu hết là các nước châu Á. Theo đó, các khách hàng này phải ngừng hoạt động nhập khẩu dầu thô từ Iran từ ngày 1/5, nếu không sẽ phải đối mặt với các lệnh trừng phạt.
Tổng thống Trump tin rằng Saudi Arabia và các nhà sản xuất khác trong OPEC có thể bù đắp cho bất kỳ sự thiếu hụt nguồn cung nào từ Iran. Saudi Arabia cho hay sẽ phối hợp với các nước xuất khẩu dầu thô khác bảo đảm đủ nguồn cung dầu thô và cân bằng cung-cầu trên thị trường dầu thô thế giới.
Công ty cung cấp dữ liệu Refinitiv cho biết, trước khi bị tái áp đặt các lệnh trừng phạt vào năm 2018, Iran là nhà sản xuất dầu lớn thứ tư trong OPEC, với sản lượng khoảng 3 triệu thùng dầu/ngày. Tuy nhiên, xuất khẩu dầu thô của nước này trong tháng Tư đã giảm xuống dưới 1 triệu thùng/ngày.
Trung Quốc, khách hàng lớn nhất của Iran khi nhập khẩu khoảng 585.400 thùng/ngày trong năm 2018, đã chính thức lên tiếng phàn nàn với Washington về động thái miễn trừ này. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói rằng điều đó sẽ gây ra tình trạng bất ổn tại khu vực Trung Đông và trên thị trường năng lượng thế giới.
Bên cạnh đó, Viện Xăng dầu Mỹ (API) cho hay dự trữ dầu thô của Mỹ đã tăng 6,9 triệu thùng/ngày trong tuần kết thúc ngày 19/4 lên 459,6 triệu thùng, cao hơn so với dự báo tăng 1,3 triệu thùng mà các nhà phân tích đưa ra. Tuy nhiên, dự trữ dầu tại Cushing, Oklahoma đã giảm khoảng 389.000 thùng
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất 4 tháng giữa bối cảnh đồng USD tăng giá và nhà đầu tư tìm đến các tài sản mang tính rủi ro hơn, qua đó làm lu mờ sức hấp dẫn của vàng.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.271,36 USD/ounce, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 26/12/2018 là 1.265,90 USD/ounce trong phiên trước đó; vàng kỳ hạn giao tháng 6/2019 giảm 0,3% xuống 1.273,20 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD, thước đo đánh giá đồng bạc xanh với giỏ tiền tệ chính, đã tăng 0,38% lên 97,66, gần mức cao nhất ba tháng trước khi thị trường vàng đóng cửa, qua đó làm giảm nhu cầu đối với kim loại quý này, vốn được coi là “ nơi trú ẩn an toàn” trong thời kỳ bất ổn.
Trước đó ngày 21/4, một loạt vụ nổ bom nhằm vào các nhà thờ và khách sạn hạng sang của Sri Lanka đã khiến hơn 300 người thiệt mạng và 500 người bị thương.
Ngoài ra, số liệu kinh tế tốt hơn dự kiến của Trung Quốc và Mỹ đã khiến giá vàng giảm tới 6% giá trị từ mức “đỉnh” hồi tháng Hai của năm nay.
Các thị trường hiện đang chờ đợi số liệu về Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Mỹ, dự kiến công bố vào cuối tuần này, để tìm kiếm thêm manh mối về thể trạng nền kinh tế lớn nhất thế giới này.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 1,1% xuống 14,81 USD/ounce, sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 26/12/2018 là 14,71 USD/ounce.
Ngân hàng Standard Chartered giá lạc quan về giá vàng trong cả năm 2019 và 2020 nhờ chính sách lãi suất ôn hòa của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và nhu cầu tiêu thụ lớn.
Theo giám đốc phòng nghiên cứu kim loại quý Suki Cooper tại Standard Chartered, giá vàng sẽ bùng nổ trong năm 2019 với kịch bản Cục Dự trữ Liên bang Mỹ không tăng lãi suất cho tới hết năm 2020. “Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ không tăng lãi suất trong năm 2019 và 2020 để chuẩn bị công cụ đối phó cho đợt suy thoái có thể xảy ra vào năm 2021”, bà Cooper nói.
Hai yếu tố khác sẽ hỗ trợ giá vàng là nhu cầu tích trữ vàng của các ngân hàng trung ương cũng như Trung Quốc và Ấn Độ tăng lên. Theo bà Cooper, giá vàng thậm chí có thể lên cao hơn năm 2018. “Chúng tôi cho rằng khả năng giá vàng tăng ngày càng lớn. Trong quý IV, giá kim loại quý này có thể đạt trung bình 1.325 USD/ounce, thậm chí thử mốc kỷ lục 1.362 USD/ounce của năm 2018, vì USD suy yếu và lợi suất trái phiếu giảm”, đại diện đến từ Standard Chartered nói.
Bà Cooper đánh giá triển vọng lạc quan hơn nữa đối với giá vàng trong năm 2020. “Theo dự đoán của chúng tôi, sẽ vàng sẽ tiếp tục tăng bứt phá trong năm tới, trung bình đạt 1.375 USD/ounce”.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nickel đã chạm mức thấp nhất hai tháng sau khi có dấu hiệu nguồn cung tăng, USD mạnh lên và sự không chắc chắn về nền kinh tế Trung Quốc.
Giá nickel kỳ hạn 3 tháng tại LME đã giảm 2,1% xuống còn 12.390 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 19/2. Giá nickel đã giảm 8% kể từ khi chạm mức cao nhất trong sáu tháng vào đầu tháng 3 nhưng vẫn là kim loại hoạt động tốt nhất từ đầu năm tới nay với mức tăng 18%.
Dữ liệu cho thấy thiếu hụt trên thị trường nickel toàn cầu trong hai tháng đầu năm đã giảm mạnh xuống còn 5.700 tấn, giảm nhiều so với mức thiếu hụt 24.400 tấn trong cùng kỳ năm ngoái.
Giá quặng sắt của Trung Quốc đã quay đầu giảm xuống do nhu cầu tiêu thụ yếu sau khi Đường Sơn hạn chế sản xuất thép, nhưng mức giảm hạn chế do các nhà máy thép sẽ sớm mua bổ sung kho dự trữ nguyên liệu. Giá thép cũng giảm do nhu cầu giảm, kể cả ngành xây dựng.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2019 trên Sàn Đại Liên giảm 0,6% xuống còn 629 CNY(93,70 USD)/tấn. Giá quặng sắt 62% giao ngay đã tăng 2,2% đạt mức 95 USD/tấn trong ngày giao dịch đầu tuần, gần chạm mức cao nhất 5 năm. Giá thép xây dựng kỳ hạn tại Trung Quốc cũng giảm, với giá thép cốt tại Thượng Hải giảm 0,7% xuống còn 3,75 CNY/tấn. Giá thép cuộn cán nóng giảm 0,9% xuống còn 3,692 CNY/tấn. Giá thép tấm tại Thượng Hải đã lên mức cao 7,5 năm vào tuần trước nhờ nhu cầu tiêu thụ vững và kỳ vọng Bắc Kinh sẽ tăng cường các biện pháp kích thích kinh tế thông qua các dự án cơ sở hạ tầng.
Tuần qua, thị trường quặng sắt rơi vào trạng thái điều chỉnh giá mạnh sau một đợt liên tục lập kỷ lục. Tâm lý thị trường vẫn yếu ớt và bị xáo trộn bởi tin tức xuất khẩu quặng của Australia bị gián đoạn, tập đoàn khai khoáng đứng đầu thế giới, Vale, tái hoạt động mỏ Brucutu với công suất 30 triệu tấn/năm, nhóm chuyên gia phân tích tại Orient Futures cho biết. Cả tuần qua, giá quặng sắt giao tháng 5 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên giảm 5,1%, ghi nhận đợt giảm mạnh nhất trong 20 tuần gần nhất. Chốt phiên 19/4, giá ở 621,5 nhân dân tệ/tấn (92,7 USD/tấn).
Hoạt động bổ sung dự trữ quặng sắt có thể sẽ diễn ra trước kỳ nghỉ lễ Lao động ở Trung Quốc vào tuần tới.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô giao tháng 7/2019 tăng 0,13 UScent tương đương 1% lên 12,90 UScent/lb, giao dịch trong khoảng 12,5 và 13 UScent. Giá dầu tăng kéo đường thô tăng theo. Tuy nhiên, đường trắng giao tháng 8/2019 giảm 50 UScent tương đương 0,2% xuống 338,2 USD/tấn.
Cà phê arabica giao tháng 7/2019 trong phiên vừa qua tăng 0,4 UScent tương đương 0,4% lên 93,25 UScent/lb, trong khi đó robusta giao cùng kỳ hạn giảm 17 USD tương đương 1,2% xuống 1.399 USD/tấn.
Giá đậu tương của Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất 7 tháng do nhu cầu yếu, ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung Quốc và dịch lợn ở Trung Quốc. Giá đậu tương giao tháng 5 tại Chicago đã giảm 15-3/4 cent còn 8,31-1 / 4 USD/bushel, mức thấp nhất kể từ 19/ 9. Bộ Nông nghiệp Mỹ dự báo dự trữ đậu tương tại Mỹ vào cuối năm 2018/19 sẽ đạt 895 triệu bushel, nhiều hơn gấp đôi so với năm trước đó.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo giảm vào cuối phiên giao dịch sau khi tăng vào phiên sáng. Giá cao su giao tháng 9/2019 giảm 0,3 JPY(0,0027 USD) còn 189 JPY/kg. Giá cao su TSR20 kỳ hạn giao tháng 10 đóng cửa giảm 1,2 JPY xuống mức 168,6 JPY/kg.
Giá cao su giao hàng tháng 5 tại SICOM chốt phiên đạt 151 Uscent/kg, giảm 0,1%. Trong khi, giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải giao tháng 9 lại tăng 5 CNY(0,7444 USD) chốt phiên đạt 11,540 CNY/tấn.

Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

66,3

+0,75

1,1%

Dầu Brent

USD/thùng

74,51

+0,47

+0,6%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

48.710,00

-140,00

-0,29%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,46

+0,01

+0,29%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

210,66

-2,50

-1,17%

Dầu đốt

US cent/gallon

210,91

-0,89

-0,42%

Dầu khí

USD/tấn

647,25

-2,00

-0,31%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

65.730,00

-30,00

-0,05%

Vàng New York

USD/ounce

1.272,40

-0,80

-0,06%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.561,00

-6,00

-0,13%

Bạc New York

USD/ounce

14,85

-0,02

-0,13%

Bạc TOCOM

JPY/g

53,70

-0,20

-0,37%

Bạch kim

USD/ounce

889,18

+0,24

+0,03%

Palađi

USD/ounce

1.391,31

-1,17

-0,08%

Đồng New York

US cent/lb

290,50

+0,50

+0,17%

Đồng LME

USD/tấn

6.407,00

-69,00

-1,07%

Nhôm LME

USD/tấn

1.866,00

-1,00

-0,05%

Kẽm LME

USD/tấn

2.748,00

-19,00

-0,69%

Thiếc LME

USD/tấn

19.890,00

-375,00

-1,85%

Ngô

US cent/bushel

360,50

+0,25

+0,07%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

444,75

-0,25

-0,06%

Lúa mạch

US cent/bushel

282,50

-0,25

-0,09%

Gạo thô

USD/cwt

10,51

+0,08

+0,72%

Đậu tương

US cent/bushel

877,50

+2,00

+0,23%

Khô đậu tương

USD/tấn

304,80

+0,30

+0,10%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,44

+0,07

+0,25%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

446,70

+0,60

+0,13%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.292,00

-50,00

-2,13%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

93,25

+0,40

+0,43%

Đường thô

US cent/lb

12,90

+0,13

+1,02%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

105,55

-4,25

-3,87%

Bông

US cent/lb

77,69

-0,22

-0,28%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

314,90

-8,70

-2,69%

Cao su TOCOM

JPY/kg

189,20

+0,20

+0,11%

Ethanol CME

USD/gallon

1,34

-0,01

-0,45%

Nguồn: Bloomberg, Reuters, CafeF

Nguồn:Vinanet