Trên thị trường năng lượng, giá dầu duy trì quanh mức cao nhất gần 6 tháng sau số liệu cho thấy lượng dầu dự trữ của Mỹ tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 10/2017, xoa dịu lo ngại về nguồn cung thắt chặt.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc tăng 6 Uscent lên 74,57 USD/thùng, sau khi chạm mức cao nhất kể từ ngày 1/11/2018 là 74,73 USD/thùng trong phiên trước đó. Dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) chịu nhiều áp lực hơn từ sự gia tăng lượng dầu dự trữ trong nước nói trên, khi giảm 41 US cent xuống còn 65,89 USD/thùng. Phiên trước đó, dầu WTI đã có thời điểm lên đến 66,60 USD/thùng, mức cao nhất kể từ ngày 31/10.
Cơ quan quản lý thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho biết lượng dầu dự trữ của nước này đã tăng 5,5 triệu thùng trong tuần trước, cao hơn nhiều so với dự đoán tăng 1,3 triệu thùng của giới phân tích.
Trước đó, cả giá dầu giao ngay và kỳ hạn đều tăng mạnh sau khi Mỹ đầu tuần này cho biết sẽ chấm dứt quyền miễn trừ lệnh trừng phạt đối với tám nước và lãnh thổ mua dầu của Iran và yêu cầu họ ngừng nhập khẩu dầu từ quốc gia Trung Đông này kể từ tháng Năm tới nếu không muốn đối mặt với các hành động trừng phạt từ phía Washington.
Động thái này đã làm dấy lên những lo ngại về khả năng các nguồn cung dầu trên toàn cầu bị thắt chặt hơn.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng nhẹ trong bối cảnh thị trường chứng khoán Mỹ giảm điểm sau một phiên tăng kỷ lục trước đó. Kết thúc phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.276,50 USD/ounce sau khi chạm mức thấp nhất kể từ 26/12 là 1.265,90 USD/ounce trong phiên liền trước; vàng giao sau tăng 0,5% đạt 1.279,40 USD/ounce.
Sau khi tăng mạnh trong phiên trước đó, cổ phiếu của Phố Wall đã giảm điểm. Vào lúc đóng cửa phiên 24/4 tại thị trường chứng khoán Phố Wall, chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm 0,2% xuống còn 26.597,05 điểm, chỉ số tổng hợp S&P 500 giảm 0,2% xuống 2.927,25 điểm và chỉ số công nghệ Nasdaq giảm 0,2%, còn 8.102,01 điểm.
Khi cổ phiếu đi xuống, giá vàng kỳ hạn thường tăng, vì các nhà đầu tư bị thu hút vào các tài sản an toàn, chẳng hạn như vàng. Tuy nhiên, đồng USD mạnh đã giữ mức tăng của kim loại quý này trong tầm kiểm soát. Chỉ số đồng USD, thước đo của đồng bạc xanh so với sáu đồng tiền chủ chốt, đã tăng 0,41% lên 98,00 trong phiên giao dịch này.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 5/2019 tăng 12,5 US cent (0,85%) lên 14,916 USD/ounce. Tuy nhiên, giá bạch kim giao tháng 7/2019 lại giảm 5,20 USD (0,58%) xuống 888,60 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng đã hồi phục nhờ hy vọng về một thỏa thuận thương mại Hoa Kỳ-Trung Quốc và tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn tại Trung Quốc. Giá đồng kỳ hạn 3 tháng tại LME chốt phiên tăng 0,6% lên 6.448 USD/tấn.
Nhà Trắng cho biết các quan chức hàng đầu của Hoa Kỳ sẽ tới Bắc Kinh để đàm phán thương mại vào tuần tới, một quan chức hàng đầu bày tỏ sự lạc quan về việc đạt được thỏa thuận. Các nhà đầu tư đang chờ đợi chỉ số các nhà quản lý mua hàng tháng 4 của Trung Quốc công bố vào tuần tới, nhà phân tích Helen Lau của Argonaut Securities cho biết.
Giá quặng sắt và thép kỳ hạn tại Trung Quốc giảm do lo ngại về nhu cầu yếu tại khu vực phía nam của nước này- nơi mùa mưa sắp bắt đầu. Giá thép cây tại Thượng Hải chốt phiên giảm hơn 1,2% xuống còn 3.730 CNY(554,89 USD)/tấn. Giá thép cuộn cán nóng giảm 0,9% xuống còn 3.790 CNY/tấn.
Hoạt động xây dựng ở các khu vực phía Nam thường chậm lại từ tháng Năm do mưa liên tục và nhiệt độ cao. Các nhà phân tích dự kiến sản lượng sẽ không tăng mạnh trong những tuần tới do các biện pháp hạn chế sản xuất tại thành phố luyện thép hàng đầu Đường Sơn. Các nhà máy thép ở Đường Sơn vẫn đang trong tình trạng báo động khói bụi cấp độ hai, đòi hỏi hạn chế hoạt động ít nhất 40% đối với các máy thiêu kết. Nguồn cung trên thị trường dự kiến sẽ chặt chẽ hơn từ tháng tới. Tỷ lệ sử dụng công suất tại các nhà máy thép ở Trung Quốc đạt 70,03% vào tuần trước, mức cao nhất kể từ ngày 20/7/2018.
Giá quặng sắt tại Đại Liên giảm 1,6% xuống còn 619 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê giảm nhẹ do đồng real của Brazil yếu so với USD khích lệ các nhà sản xuất bán ra. Giá cà phê arabica giao tháng 7 giảm 0,9 cent, tương đương 1%, xuống mức 92,35 cent/lb. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7 đã giảm 8 USD, tương đương 0,6%, xuống còn 1.391 USD/tấn sau khi chạm mức thấp hơn ba năm là 1.389 USD/tấn.
Giá đường thô giao tháng 7/2019 vững so với phiên giao dịch trước, ở mức 12,90 UScent/lb, sau khi có lúc đạt 12,96 US cent. Đường trắng giao tháng 8/2019 tăng 2,1 USD tương đương 0,6% lên 340,3 USD/tấn.
Giá ngô kỳ hạn tại Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất 7 tháng trong khi giá đậu tương xuống mức thấp nhất 5 tháng rưỡi do nguồn cung dồi dào từ Nam Mỹ và triển vọng mờ nhạt của các nhà xuất khẩu Mỹ. Dịch bệnh lợn Châu Phi tại Trung Quốc đang làm giảm nhu cầu tiêu thụ đậu nành, một thức ăn động vật giầu protein.
Giá đậu nành kỳ hạn tháng 7 chốt phiên giảm 6-3/4 cent xuống mức 8,48-3/4 USD/bushel trong khi hợp đồng kỳ hạn tháng 5 chạm mức 8,54-1/2, mức giá thấp nhất kể từ 8/11. Giá ngô CBOT kỳ hạn tháng 7/2019 giảm 4-1/4 cent xuống mức 3,56 USD/bushel sau khi đạt mức thấp nhất là 3,54-3/4 USD/bushel vào đầu phiên. Giá ngô kỳ hạn tháng 5/2019 giảm còn 3,45-1/2, mức thấp nhất kể từ 20/9.
Giá cao su giảm tại Tokyo do giá dầu yếu và theo xu hướng giá giảm tại Thượng Hải. Giá cao su giao hàng tháng 10 giảm 0,2 JPY(0,0018 USD) xuống còn 189,6 JPY/kg. Giá cao su TSR 20 chốt phiên giảm 0,27% tương đường với 0,2 JPY xuống còn 168. 4 JPY/ kg.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 tại Thượng Hải giảm 75 CNY(11,17 USD) xuống còn 1.475 CNY / tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 5/2019 tại SICOM chốt phiên ở mức 150,8 US cent/ kg, giảm 0,2%.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
65,89
|
-0,41
|
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
74,57
|
+0,06
|
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
48.830,00
|
+140,00
|
+0,29%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,46
|
+0,00
|
+0,04%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
212,40
|
-0,45
|
-0,21%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
208,89
|
-0,98
|
-0,47%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
641,00
|
-4,75
|
-0,74%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
65.920,00
|
+210,00
|
+0,32%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.276,60
|
-2,80
|
-0,22%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.585,00
|
+30,00
|
+0,66%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
14,96
|
-0,04
|
-0,27%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
53,70
|
+0,40
|
+0,75%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
882,22
|
-1,88
|
-0,21%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.416,78
|
+1,77
|
+0,13%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
291,20
|
-0,40
|
-0,14%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.448,00
|
+41,00
|
+0,64%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.872,00
|
+6,00
|
+0,32%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.742,00
|
-6,00
|
-0,22%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
19.700,00
|
-190,00
|
-0,96%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
355,50
|
-0,50
|
-0,14%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
439,25
|
+0,75
|
+0,17%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
287,00
|
+3,00
|
+1,06%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,40
|
-0,02
|
-0,19%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
869,50
|
+0,75
|
+0,09%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
304,00
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
28,24
|
+0,02
|
+0,07%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
447,80
|
-0,10
|
-0,02%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.248,00
|
-44,00
|
-1,92%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
92,35
|
-0,90
|
-0,97%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,90
|
0,00
|
0,00%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
104,45
|
-1,10
|
-1,04%
|
Bông
|
US cent/lb
|
77,22
|
+0,10
|
+0,13%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
330,10
|
+12,40
|
+3,90%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
189,90
|
+0,30
|
+0,16%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,32
|
-0,02
|
-1,79%
|
Nguồn: Bloomberg, Reuters, CafeF
Nguồn:Vinanet