Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng khi số liệu chính thức cho thấy lượng dầu dự trữ của Mỹ giảm nhiều hơn dự kiến. Dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 9/2018 tăng 0,78 USD lên 69,30 USD/thùng; dầu Brent giao cùng kỳ hạn tăng 0,49 USD lên 73,93 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) vừa công bố báo cáo hàng tuần cho thấy dự trữ dầu thô của nước này đã giảm 6,1 triệu thùng vào tuần trước xuống còn 404,9 triệu thùng, mức thấp nhất kể từ tháng 2/2015 và giảm nhiều hơn mức dự đoán của thị trường (dự đoán giảm 2,3 triệu thùng). Dự trữ xăng của Mỹ cũng giảm 2,3 triệu thùng trong tuần vừa qua. Dự trữ dầu thô tại Cushing, Oklahoma, điểm phân phối dầu WTI giảm 1,1 triệu thùng xuống mức thấp nhất kể từ tháng 11/2014. Dự trữ xăng giảm 2,3 triệu thùng, so với giới phân tích dự đoán giảm 713.000 thùng. Trong khi đó dự trữ xăng tại Midwest Mỹ giảm xuống mức thấp nhất theo mùa kể từ năm 2015.
Trong khi đó, Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia Khalid al-Falih cho biết nước xuất khẩu hàng đầu thế giới này tạm thời dừng ngay lập tức tất cả các chuyến tàu chở dầu qua eo biển Bab El-Mandeb khi một cuộc tấn công trước đó của phong trào Houthi liên kết với Iran vào 2 tàu chở dầu. Eo biển Bab El-Mandeb nằm giữa Yemen, Djibouti, Eritrea và nối liền biển Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương.
Tuy nhiên, chiều giá tăng bị hạn chế sau khi số liệu này phát hành do phần lớn sự sụt giảm trong dự trữ dầu thô là tại khu vực Bờ Tây. Dự trữ tại khu vực này giảm mạnh nhất kể từ tháng 12/2011.
Căng thẳng giữa Mỹ và Iran leo thang tiếp tục hỗ trợ thị trường dầu mỏ, bởi các nhà đầu tư lo ngại rằng các biện pháp trừng phạt kinh tế nghiêm ngặt của Mỹ đối với Iran có thể làm gián đoạn đáng kể hoạt động xuất khẩu dầu của nước này. Tuy nhiên, bất đồng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc lại cản trở giá dầu tăng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng nhẹ do đồng USD giảm giá so với các đồng tiền lớn khác, dù vàng vẫn quanh mức thấp nhất gần 1 năm. Vàng giao tháng 8/2018 tăng 6,3 USD (0,5%) lên 1.231,80 USD/ounce; vàng giao ngay tăng 0,6% lên 1.231,56 USD/ounce .
Đồng USD giảm thường khiến vàng, thường được giao dịch bằng đồng tiền này, rẻ hơn đối với những khách hàng nắm giữ đồng tiền tệ khác, qua đó có thể thúc đẩy nhu cầu mua vào kim loại quý này. Ngân hàng trung ương Mỹ đã nâng lãi suất trong tháng 6, lần tăng thứ 7 kể từ tháng 12/2015. Dự đoán sẽ có 2 lần tăng nữa trong năm nay.
Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) Jean-Claude Juncker đã có chuyến công du đến Washington vào ngày 25/7/2018 để đàm phán về những căng thẳng thương mại với Tổng thống Mỹ Donald Trump. Sau cuộc gặp giữa Tổng thống Trump với Chủ tịch EC Jean-Claude Juncker, báo giới đưa tin Mỹ và Liên minh Châu Âu (EU) đã nhất trí giảm rào cản thương mại giữa hai bên, mở ra một "giai đoạn mới" trong quan hệ song phương cũng như hợp tác hướng đến mục tiêu không thuế quan, không rào cản phi thuế quan và không trợ cấp ở lĩnh vực hàng công nghiệp không tự động. Tổng thống Mỹ khẳng định hai bên sẽ giải quyết vấn đề liên quan đến thuế nhôm thép và các biện pháp trả đũa song phương hiện nay.
Về những kim loai quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,9% lên 15,58 USD/ounce, sau khi có lúc đạt mức cao của tám phiên là 15,63 USD/ounce; giá palađi tăng 2,2% lên 934,80 USD/ounce, còn giá bạch kim giao ngay cộng thêm 1,3% lên 839,10 USD/ounce.
Ngân hàng ICBC Standard dự kiến giá vàng sẽ ở mức trung bình khoảng 1.260 USD/ounce trong quý 3/2018 và 1.300 USD/ounce trong quý 4/2018.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng duy trì quanh mức cao nhất trong 2 tuần do USD suy yếu và thị trường chờ đợi kết quả đàm phán lương tại mỏ khai thác kim loại công nghiệp lớn nhất thế giới. Đồng LME giảm 0,1% xuống 6.290 USD/tấn. Kim loại này sử dụng trong ngành điện và xây dựng này đã tăng mạnh nhất trong ngày 24/7/2018 kể từ tháng 1/2018.
Lãnh đạo mỏ Escondida của BHP tại Chile cho biết họ đã thực hiện đề nghị cuối cùng cho liên đoàn đại diện cho công nhân bao gồm tiền thưởng ký kết hợp đồng và tăng 1,5% tiền lương. Chưa có phản hồi từ liên đoàn khi mà yêu cầu tăng lương của họ là 5%. Nếu đề xuất này không được chấp thuận, công ty sẽ tổ chức 5 ngày đàm phán và có thể kéo dài tiếp. Giá ngày hôm nay là phản ứng của thị trường đối với giai đoạn chờ đợi.
Việc không đạt được thỏa thuận lao động tại Escondida năm ngoái đã dẫn tới một cuộc đình công kéo dài 44 ngày làm rung chuyển thị trường đồng toàn cầu. Một cuộc đình công khác đã đẩy giá đồng tại London lên 7.348 USD/tấn vào ngày 7/6/2018, cao nhất trong gần 4 năm rưỡi, trước khi những lo sợ về một cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung có thể làm giảm nhu cầu, đẩy giá xuống dưới 6.000 USD/tấn trong tuần trước.
Công ty Freeport-McMoRan, công ty khai thác đồng lớn nhất thế giới, đã báo cáo lợi nhuận lớn hơn dự kiến do sản lượng và giá tăng trên mức năm ngoái.
Bắc Kinh đã tuyên bố theo đuổi một chính sách tài chính "mạnh mẽ hơn" gồm cắt giảm thuế do chính quyền nỗ lực hỗ trợ tăng trưởng trong bối cảnh các yếu tố xấu đến kinh tế ngày càng tăng. Động thái này sẽ thúc đẩy nhu cầu đồng và các kim loại khác tại Trung Quốc, nước tiêu thụ hàng đầu thế giới.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao tháng 9/2018 ít biến động khi chỉ tăng 0,0005 US cent/lb tương đương 0,05% leen 1,11 USD/lb, còn robusta giao tháng 9/2018 giảm 13 USD tương đương 0,8% xuống 12.680 USD/tấn.
Với mặt hàng đường, giá đường thô kỳ hạn tháng 10 không thay đổi 11,18 US cent/lb, trong phiên giao dịch giá đã lên mức cao 11,35 US cent/lb. Số liệu từ nước sản xuất đường hàng đầu thế giới Brazil cho thấy các nhà máy tại khu vực trung tâm phía nam đã sử dụng 45 triệu tấn mía trong nửa đầu tháng 7, giảm nhẹ từ 47,7 triệu tấn trong cùng kỳ năm trước. Báo cáo này chưa đủ manh mối cho bất kỳ phản ứng mạnh nào. Khảo sát của S&P Global Platts dự báo lượng mía sử dụng là 45,39 triệu tấn, sản lượng đường là 2,42 triệu tấn. Các nhà máy được phân bổ 60,8% lượng mía để sản xuất ethanol.
Đường trắng kỳ hạn tháng 10 tăng phiên thứ 4 liên tiếp, tăng 1,3 USD hay 0,4% lên 327,4 USD/tấn. Qatar đang xây dựng một nhà máy đường trong một nỗ lực tránh gián đoạn nguồn cung sau khi các nước láng giềng vùng Vịnh Ả rập cắt đứt quan hệ kinh tế và chính trị với Doha hơn một năm trước.
Lúa mì kỳ hạn tăng bởi viễn cảnh sản lượng vụ mùa giảm tại EU, Nga và dấu hiệu sức mua được đẩy mạnh trong khi dự đoán giá có thể tăng tiếp. Lúa mì kỳ hạn tháng 12 trên sàn giao dịch Euronext tăng 1,5 euro hay 0,8% lên 198,5 euro/tấn sau khi đạt đỉnh 200 euro, giá cao nhất kể từ tháng 7/2015. Đậu tương kỳ hạn giảm nhẹ sau khi tăng trong phiên trước đó, trong khi giá ngô đi lên.
Công ty tư vấn chiến lược ngũ cốc một lần nữa cắt giảm ước lượng sản lượng lúa mì của EU, hiện dự kiến dưới 130 triệu tấn so với 132,4 triệu tấn ước tính vào đầu tháng 7. Đây sẽ là vụ lúa mì có sản lượng thấp nhất tại 28 nước trong khối EU kể từ năm 2012. EU đã thu hoạch 141,8 triệu tấn lúa mì trong năm 2017.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo tăng sau 4 phiêrn sụt giảm liên tiếp trước đó và phục hồi từ mức thấp nhất trong 22 tháng bởi sự tăng giá ở Thượng Hải và do nhà đầu tư săn giá hời. Giá cao su tại sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) đã xuống mức thấp nhất vào ngày 24/7/2018 kể từ 5/10/2016 bởi những lo ngại về tranh chấp thương mại Mỹ - Trung leo thang. Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 12 chốt phiên tăng 2,1 yên hay 1,3% lên 168,4 yên/kg. Hợp đồng kỳ hạn tháng 7 tại TOCOM đã hết hạn trong ngày hôm nay ở mức 162,5 yên/kg. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 185 NDT lên 10.320 NDT (1.525 USD)/tấn, phục hồi từ mức thấp nhất một tháng có lúc chạm tới trong phiên trước.
Lũ lụt ở Lào cũng làm tăng lo ngại về sản lượng cao su ở các khu vực dọc theo sông Mekong, gồm cả huyện sản xuất chính của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. 19 người được xác định đã thiệt mạng và hơn 3.000 người cần được cứu sau khi vỡ đập thủy điện tại Lào.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
69,30
|
+0,78
|
+0,95%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
73,93
|
+0,49
|
+0,61%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
50.370,00
|
+350,00
|
+0,70%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,79
|
+0,01
|
+0,40%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
213,50
|
+1,19
|
+0,56%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
216,49
|
+1,37
|
+0,64%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
663,00
|
+4,50
|
+0,68%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
68.640,00
|
+650,00
|
+0,96%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.243,90
|
+2,90
|
+0,23%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.390,00
|
+11,00
|
+0,25%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
15,67
|
+0,08
|
+0,52%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
55,90
|
+0,40
|
+0,72%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
842,85
|
-1,50
|
-0,18%
|
Palladium giao ngay
|
USD/ounce
|
937,24
|
-2,73
|
-0,29%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
281.05
|
0.00
|
0.00%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6,295.00
|
+165.00
|
+2.69%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2,084.50
|
+15.50
|
+0.75%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2,616.00
|
+61.00
|
+2.39%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19,675.00
|
+200.00
|
+1.03%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
285,30
|
+3,55
|
+1,26%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
6.290,00
|
-5,00
|
-0,08%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
2.062,00
|
-22,50
|
-1,08%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
2.585,00
|
-31,00
|
-1,19%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
19.750,00
|
+75,00
|
+0,38%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
285,30
|
+3,55
|
+1,26%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
6.290,00
|
-5,00
|
-0,08%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
2.062,00
|
-22,50
|
-1,08%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.245,00
|
-12,00
|
-0,53%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
111,00
|
+0,05
|
+0,05%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
11,19
|
0,00
|
0,00%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
164,75
|
+1,60
|
+0,98%
|
Bông
|
US cent/lb
|
88,29
|
+0,32
|
+0,36%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
493,30
|
+4,80
|
+0,98%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
168,20
|
-0,20
|
-0,12%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,43
|
+0,01
|
+0,78%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet