Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau số liệu dự trữ dầu thô của Mỹ và tâm lý lo ngại rằng lượng dầu cắt giảm như cam kết của OPEC và Nga chưa đủ để kết thúc tình trạng dư cung.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 1/2017 trên sàn New York giảm 1,16 USD (2,4%) xuống 49,77 USD/thùng, dầu Brent Biển Bắc giao tháng 2/2017 tại London giảm 93 US cent (1,7%) xuống 53 USD/thùng.
Tại châu Á, dầu Brent Biển Bắc được giao dịch tại Singapore chốt phiên ở mức 53,76 USD/thùng, giảm 17 US cent (hay 0,32%), so với phiên trước. Trong khi đó, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ giảm 24 US cent (0,45%) xuống 50,70 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết lượng dầu thô dự trữ của nước này giảm 2,4 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 2/12, nhiều hơn dự đoán 1 triệu thùng trước đó của giới phân tích. Tuy nhiên, lượng dầu dự trữ ở thành phố Cushing, bang Oklahoma, trung tâm phân phối dầu thô của Mỹ, lại tăng 3,8 triệu thùng hồi tuần trước, mức tăng mạnh nhất kể từ năm 2009.
Theo ông Matt Smith, Giám đốc phụ trách nghiên cứu hàng hóa thuộc nhà cung cấp dữ liệu năng lượng ClipperData, thị trường ngày càng hoài nghi về khả năng các nước ngoài OPEC có thể cắt giảm 600.000 thùng/ngày như kỳ vọng của khối này.
Giá dầu đã tăng gần 20% sau khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và Nga đạt được thỏa thuận cắt giảm sản lượng cuối tháng trước, nhưng sau đó các nước này lại thông báo mức sản lượng cao kỷ lục. Bên cạnh đó, Nigeria, nước được hưởng ngoại lệ trong thỏa thuận này, ngày 7/12 cho biết nước này hy vọng sẽ tăng sản lượng dầu lên 2,1 triệu thùng/ngày vào tháng 1/2017, thay vì 1,9 triệu thùng/ngày như hiện tại.
Theo kế hoạch, các nước sản xuất trong và ngoài OPEC sẽ nhóm họp vào cuối tuần này tại thủ đô của Áo để nhất trí những chi tiết của thỏa thuận cắt giảm sản lượng, với mục tiêu cắt giảm tổng cộng khoảng 1,5 triệu thùng/ngày.
Giới phân tích dự báo sang năm 2017, thị trường sẽ cân bằng hơn. Sản lượng dầu đã vượt nhu cầu tiêu thụ khoảng 1-2 triệu thùng/ngày kể từ cuối năm 2014.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục tăng trong bối cảnh USD giảm giá so với EUR.
Giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.173,32 USD/ounce, tăng 0,6% so với mức thấp nhất trong 10 tháng là 1.157 USD/ounce ghi nhận trong phiên 5/12; giá vàng giao tháng 2/2017 tăng 0,6% lên chốt phiên ở mức 1.177,5 USD/ounce.
Đồng bạc xanh giảm giá so với đồng euro trước thềm cuộc họp chính sách của Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) ngày 8/12 và triển vọng Mỹ sẽ tăng lãi suất trong tuần tới.
Trong tháng 11/2016, vàng để mất tổng cộng 8% giá trị. Yếu tố chi phối chính là diễn biến quanh kế hoạch tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) trong cuộc họp thường kỳ tháng này.
Trên thị trường nông sản, giá cacao giảm xuống mức thấp nhất nhiều năm do dự báo nguồn cung dư thừa. Trái lại, giá đường tăng mạnh sau thông tin Petrobras của Brazil nâng giá khí gas và dầu diesel thêm lần lượt 8,1% và 9,5% khiến cho ethanol trở nên hấp dẫn và các nhà máy đường vì thế lại gia tăng tỷ lệ mía sản xuất ethanol.
Cà phê giảm gía trong phiên vừa qua, arabica trên sàn New York giảm 0,3 US cent hay 0,2% xuống 1,417 USD/lb, trong phiên có lúc giá xuống 1,4075 USD – mức thấp nhất kể từ giữa tháng 8; robusta trên sàn London giảm 9 USD hay 0,4% xuống 2.030 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
49,77
|
-1,16
|
-2,4%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
53,00
|
-0,93
|
-1,7%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
36.890,00
|
-610,00
|
-1,63%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,59
|
-0,02
|
-0,44%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
150,60
|
-0,22
|
-0,15%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
161,75
|
-0,09
|
-0,06%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
470,00
|
-3,25
|
-0,69%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
46.050,00
|
-470,00
|
-1,01%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.177,70
|
+0,20
|
+0,02%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.279,00
|
+12,00
|
+0,28%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,23
|
-0,05
|
-0,29%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
62,80
|
+1,80
|
+2,95%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
947,23
|
+6,43
|
+0,68%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
735,65
|
+1,80
|
+0,25%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
263,45
|
-0,95
|
-0,36%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.785,00
|
-99,00
|
-1,68%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.707,00
|
-2,00
|
-0,12%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.740,00
|
-60,00
|
-2,14%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
21.100,00
|
-25,00
|
-0,12%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
357,25
|
-0,75
|
-0,21%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
402,25
|
+1,25
|
+0,31%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
222,75
|
+4,25
|
+1,95%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,89
|
-0,04
|
-0,40%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.045,00
|
-4,00
|
-0,38%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
320,20
|
-0,30
|
-0,09%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
37,59
|
-0,34
|
-0,90%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
526,40
|
-2,90
|
-0,55%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.324,00
|
-34,00
|
-1,44%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
141,70
|
-0,30
|
-0,21%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,63
|
+0,12
|
+0,62%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
214,15
|
-2,85
|
-1,31%
|
Bông
|
US cent/lb
|
71,05
|
-0,28
|
-0,39%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
328,70
|
-2,70
|
-0,81%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
239,50
|
-3,30
|
-1,36%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,65
|
+0,04
|
+2,62%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet