Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng. Dầu thô ngọt nhẹ (WTI) của Mỹ tăng lên mức cao kỷ lục 6 tháng sau những số liệu cho thấy lượng dự trữ dầu của Mỹ sụt giảm bất ngờ.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu WTI kỳ hạn giao tháng 6/2016 tăng 1,57 USD lên 46,23 USD/thùng, mức cao nhất kể từ cuối tháng 11/2015. Giá dầu Brent kỳ hạn giao tháng 7/2016 trên sàn London tăng 2,08 USD lên 47,60 USD/thùng.
Bộ Năng lượng Mỹ cho biết dự trữ dầu mỏ của nước này đã giảm 3,4 triệu thùng vào tuần trước, nguồn cung xăng và các sản phẩm chưng cất như dầu diesel và nhiên liệu sưởi ấm cũng giảm hơn so với dự kiến, giảm lần lượt 1,2 triệu thùng và 1,6 triệu thùng.
Sản lượng dầu của Mỹ đã giảm 23.000 thùng mỗi ngày xuống 8,8 triệu thùng mỗi ngày vào tuần trước, giảm so với mức 9,6 triệu thùng hồi cuối tháng Sáu.
Chuyên gia Matt Smith của trung tâm ClipperData cho biết giá dầu tăng là do nguồn cung bị gián đoạn bởi xảy ra cháy rừng nghiêm trọng tại tỉnh bang Alberta, thủ phủ sản xuất dầu cát của Canada và tình trạng bất ổn ở Nigeria.
Giá dầu Mỹ đã tăng 76% kể từ khi rơi xuống đáy 13 năm hồi đầu năm nay, một phần nhờ sản lượng dầu thô của Mỹ giảm và gián đoạn nguồn cung tại một số khu vực trên thế giới. Tuy nhiên, lượng dầu lưu kho khổng lồ đã kiềm chế đà tăng này khi một số nhà đầu tư cho rằng họ không nghĩ rằng đà tăng hiện nay có thể kéo dài trước khi lượng dầu lưu kho toàn cầu giảm.
Theo EIA, lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần qua giảm ngay cả khi nhập khẩu và sản lượng vẫn tương đối ổn định và các nhà máy lọc dầu giảm công suất chế biến so với tuần trước đó.
Giới phân tích dự đoán nhập khẩu dầu thô của Mỹ sẽ giảm trong tuần tới do cháy rừng tại Canada khiến một công ty dầu cát phải tạm dừng hoạt động.
Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng những yếu tố hộ trợ giá dầu hiện nay chỉ mang tính nhất thời và thị trường vẫn trong tình trạng thừa cung, nhất là trong bối cảnh sản lượng dầu thô của các nước sản xuất chủ chốt như Arab Saudi và Iran tiếp tục tăng mạnh.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng hồi phục từ mức thấp nhất 2 tuần do đồng USD ngừng tăng và chứng khoán toàn cầu giảm.
Giá vàng giao ngay tăng 0,8% lên 1.275,5 USD/ounce, trong khi giá vàng giao tháng 6/2016 tăng 0,8% lên 1.275,5 USD/ounce.
USD giảm 0,5% so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ, chấm dứt mạch tăng 6 phiên liên tiếp.
Chứng khoán Mỹ và châu Âu đều giảm trong bối cảnh lợi nhuận công ty gây thất vọng sau khi tăng mạnh trong đầu phiên giao dịch.
Các nhà phân tích dự đoán giá vàng sẽ tái thử thách ngưỡng 1.300 USD/ounce trong ngắn hạn khi kim loại quý này đã tăng 20% kể từ đầu năm đến nay, một phần do nhu cầu vật chất tăng và đồn đoán Fed sẽ chỉ nâng lãi suất vào cuối năm nay khi các nhà hoạch định chính sách Fed đang tỏ ra thận trọng về điều kiện kinh tế toàn cầu.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 1,3% lên 17,32 USD/ounce, giá bạch kim tăng 1,8% lên 1.065,02 USD/ounce và giá palladium tăng 2,5% lên 605,63 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê tiếp tục tăng. Tại London, giá robusta tăng 10-11 USD/tấn, trong khi giá arabica tại New York tăng 1-1,05 cent/lb.
Giá cà phê tiếp tục được hỗ trợ từ tin tức về thời tiết khô hạn tại Đông Nam Á - Việt Nam, nước sản xuất cà phê Robusta lớn nhất thế giới, và Indonesia.
Thời tiết khô hạn đã trì hoãn vụ thu hoạch cà phê Robusta của Indonesia - bắt đầu chính vụ vào tháng 6 và mặc dù sản lượng cà phê vụ mới được dự báo giảm 10%, nhưng hoạt động bán ra sẽ sôi động hơn vào tháng 7 năm nay. Tuy nhiên, do nhu cầu cà phê nội địa của Indonesia tăng mạnh và chỉ có khoảng 5-6 triệu bao Robusta vụ mới sẵn có cho xuất khẩu, dự đoán, hoạt động bán ra tại Việt Nam sẽ chưa sôi động.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
46,23
|
+1,57
|
+0,65%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
47,60
|
+2,08
|
+1,78%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
30.480,00
|
+870,00
|
+2,94%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,16
|
-0,01
|
-0,69%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
156,93
|
-1,22
|
-0,77%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
139,06
|
-0,61
|
-0,44%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
415,50
|
+1,50
|
+0,36%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
1.279,00
|
+3,50
|
+0,27%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
4.428,00
|
+5,00
|
+0,11%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4,427.00
|
+24.00
|
+0.55%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,46
|
+0,14
|
+0,81%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
60,60
|
+0,30
|
+0,50%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.066,20
|
-0,20
|
-0,02%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
610,45
|
+1,95
|
+0,32%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
210,55
|
+0,20
|
+0,10%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.708,00
|
+28,00
|
+0,60%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.564,00
|
+10,00
|
+0,64%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.903,00
|
+55,00
|
+2,98%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
17.225,00
|
+65,00
|
+0,38%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
378,75
|
+1,25
|
+0,33%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
459,00
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
192,25
|
+4,00
|
+2,12%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,49
|
0,00
|
-0,04%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.079,25
|
+1,00
|
+0,09%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
362,00
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,37
|
+0,01
|
+0,03%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
518,10
|
+0,90
|
+0,17%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.070,00
|
-31,00
|
-1,00%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
129,75
|
+1,00
|
+0,78%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
16,77
|
+0,75
|
+4,68%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
145,55
|
+2,35
|
+1,64%
|
Bông
|
US cent/lb
|
60,75
|
+0,15
|
+0,25%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
321,20
|
-0,30
|
-0,09%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
179,00
|
-2,20
|
-1,21%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,53
|
+0,00
|
+0,13%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet