Năng lượng: Giá dầu tăng mạnh
Giá dầu đã tăng hơn 25% trong năm nay, trong đó cả giá dầu ngọt nhẹ Mỹ và giá dầu Brent đều đang hướng đến quý tăng mạnh nhất kể từ năm 2009, chủ yếu là nhờ các biện pháp cắt giảm sản lượng của OPEC và các nước đồng minh như Nga.
Phiên cuối tuần qua đồng thời cũng là phiên giao dịch cuối cùng của tháng 3/2019, giá tăng khoảng 1%, loại Brent tăng 57 UScent (0,8%) lên 68,39 USD/thùng, tính chung trong tháng 3/2019 tăng 5,1%, còn quý 1/2019 tăng 27%. Trong khi đó, dầu ngọt nhẹ (WTI) tăng 84 UScent so với phiên trước (1,42%) lên 60,14 USD/thùng, tính trong tháng 3 tăng 7,78%, còn quý 1 tăng 32%. Đây là những mức tăng mạnh nhất kể từ quý 2/2009.
Bên cạnh hành động kiềm chế sản lượng và xuất khẩu của OPEC+, các lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Venezuela và Iran đã hạn chế hoạt động xuất khẩu dầu của các nước này và đẩy giá dầu trong năm nay. Washington đã yêu cầu các công ty lọc dầu và trung tâm giao dịch "vàng đen" trên toàn thế giới cắt giảm hơn nữa các giao dịch với Venezuela để tránh phải đối mặt với lệnh trừng phạt.
Tuần này, Mỹ cũng gia tăng sức ép đối với Iran, khi tiến hành xem xét hoạt động xuất khẩu của nước này cũng như những chiến lược được Tehran áp dụng để tránh trừng phạt.
Tuy nhiên, Saudi Arabia đang gặp khó khăn trong việc thuyết phục Nga duy trì thỏa thuận này lâu hơn. Về phía mình, các nguồn tin thân cận với vấn đề này cho biết Moskva có thể sẽ chỉ đồng ý gia hạn thêm ba tháng nữa.
Ngân hàng Barclays dự báo giá dầu sẽ vẫn ở mức cao trong quý 2/2019, với giá dầu Brent ở mức 73 USD/thùng, còn giá dầu WTI là 65 USD/thùng. Ngân hàng này cho rằng giá dầu sẽ giữ ở mức 70 USD/thùng trong năm nay.
Trong khi đó, theo một cuộc khảo sát do hãng tin Reuters tiến hành, các nhà kinh tế dự báo giá dầu Brent sẽ ở mức trung bình 67,12 USD/thùng trong năm 2019, tăng 1% so với dự báo trong cuộc khảo sát trước (66,44 USD/thùng).
Kim loại quý: Vàng giảm trong tháng 3/2019
Phiên giao dịch cuối tuần, giá vàng tăng do USD suy yếu và hoạt động mua vào tài sản an toàn khi giới đầu tư lo ngại về triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Chốt phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.292,93 USD/ounce và, vàng giao sau tăng 0,2% lên 1.298,50 USD/ounce.
Tính chung cả tuần, giá giảm khoảng 1,62%, kết chấm dứt chuỗi 3 tuần tăng liên tiếp và là mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 8. Tính chung trong tháng 3/2019, giá gần như không thay đổi.
Giá vàng đã tăng khoảng 13% kể từ khi chạm mức thấp nhất trong hơn 1 năm rưỡi hồi tháng Tám năm ngoái, chủ yếu nhờ chủ trương ôn hòa về lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và quan ngại về triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Song giá vàng vẫn thấp hơn so với mức đỉnh (1.346,73 USD/ounce) của 10 tháng đã đạt được hồi tháng Hai.
Các chuyên gia nhận định triển vọng kinh tế ảm đạm không hỗ trợ nhiều cho giá vàng, thường được đánh giá là kênh đầu tư an toàn trong thời kỳ bất ổn. Chuyên gia Peter Hug, thuộc Kitco Metals, nhận định vàng sẽ tiếp tục chịu sự chi phối của đồng USD cho đến khi có thêm các yếu tố tác động khác.
Các ngân hàng trung ương trên thế giới có chiều hướng giữ quan điểm không tăng lãi suất. Các bên tham gia thị trường dự báo rằng Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) sẽ giữ lãi suất ở mức thấp trong thời gian dài hơn. Trong quý 4/2018, kinh tế Mỹ đã tăng trưởng chậm hơn dự kiến, khiến tốc độ tăng trưởng trong năm 2018 ở dưới mục tiêu 3% mà Chính phủ Tổng thống Mỹ Donald Trump đề ra.
Kim loại công nghiệp: Giá có xu hướng tăng
Phiên cuối tuần, giá đồng kỳ hạn trên sàn London tăng 1,9% lên 6.482,5 USD/tấn, nhiều nhất kể từ ngày 25/1/2019 và đánh dấu quý tăng đầu tiên kể từ cuối năm 2017.
Giá kẽm giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 2% lên 2.923 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 28/6/2018, do lượng kẽm lưu kho trên sàn London chạm mức thấp nhất kể từ ít nhất năm 1998. Tính đến nay, giá kẽm tăng 24% từ mức thấp nhất đầu tháng 1/2019, được thúc đẩy bởi kỳ vọng thỏa thuận thương mại.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng mạnh, có quý tăng mạnh nhất kể từ năm 2013, sau khi Vale giảm ước tính doanh số bán quặng sắt năm 2019 và Rio Tinto tuyên bố bất khả kháng đối với một số hợp đồng do ảnh hưởng bởi lốc xoáy.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn Đại Liên phiên cuối tuần qua tăng 4,7% lên 638,5 CNY (94,96 USD)/tấn, cao nhất kể từ ngày 12/2/2019 (657,5 CNY/tấn), do thảm họa vỡ đập hồi tháng 1/2019. Tính chung trong quý 1/2019, giá quặng sắt tăng 26%, quý tăng mạnh nhất kể từ năm 2013.
Đồng thời, giá thép cây kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 1,5% lên 3.758 CNY/tấn, được hỗ trợ bởi nhu cầu từ ngành hạ nguồn tăng. Tính chung trong quý 1/2019, giá thép cây tăng 10,6%, sau khi giảm 4,2% trong quý 4/2018. Giá thép cuộn cán nóng tăng 1,6% lên 3.741 CNY/tấn.
Vale, Brazil – công ty khai thác quặng sắt lớn nhất thế giới – ước tính doanh số bán quặng sắt trong năm nay ít hơn 75 triệu tấn, sau khi một số mỏ khai thác tạm ngừng hoạt động. Trong khi công ty khai thác quặng sắt Rio Tinto tuyên bố bất khả kháng đối với một số khách hàng, do ảnh hưởng từ cơn bão nhiệt đới Veronica phía tây Australia vào đầu tuần này.
Nông sản: Giá giảm
Phiên cuối tuần qua, giá cà phê tăng do đồng real Brazil tăng, đường giảm, trong khi ca cao đạt mức cao nhất 1 tháng. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 5/2019 tăng 0,5 US cent tương đương 0,5% lên 94,5 US cent/lb. Tính chung trong tháng 3/2019, giá cà phê giảm 4,1% sau khi giảm 9,7% trong tháng 2/2019. Trong khi đó, giá cà phê robusta giao cùng kỳ hạn giảm 36 USD tương đương 2,4% xuống 1.456 USD/tấn, trong phiên có lúc chạm mức thấp 1.454 USD/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2019 không thay đổi ở mức 12,53 US cent/lb. Giá dao động trong phạm vi hẹp giữa 12,33-12,73 US cent/lb trong tuần này và ở mức 12-13 US cent/lb trong quý 1/2019. Tính chung trong tháng 3/2019, giá đường thô giảm 1,6%. Giá đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 1,8 USD tương đương 0,6% xuống 324,8 USD/tấn. Tính chung cả tháng, giá đường trắng giảm 6,7%.
Giá cacao kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn New York tăng 23 USD tương đương 1% lên 2.280 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 2.286 USD/tấn, cao nhất 1 tháng. Tính chung trong tháng 3/2019, giá ca cao tăng 1,5%, tháng tăng thứ 2 liên tiếp. Giá ca cao giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 18 GBP tương đương 1,1% lên 1.728 GBP/tấn. Tính chung cả tháng tăng 2,7%.
Giá ngô giảm hơn 4% trong phiên cuối tuần, mức giảm mạnh nhất trong gần 3 năm sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) ước tính dự trữ và diện tích trồng vụ xuân cao hơn ước tính thương mại. Cụ thể, USDA cho biết tổng cung ngô trên thị trường Mỹ tính đến ngày 1/3/2019 đạt mức cao thứ 3 trong lịch sử nước này, trong khi đó cung lúa mì cao thứ nhì trong vòng 31 năm, còn đậu tương cao nhất kể từ trước tới nay.
Ngô kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn Chicago giảm 17-1/2 US cent xuống 3,56-1/2 USD/bushel, trong phiên có lúc giảm 4,7% xuống 3,56 USD/bushel, mức giảm mạnh nhất kể từ ngày 5/7/2016.
Giá đậu tương kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn Chicago giảm 5-1/4 US cent xuống 8,84-1/4 USD/bushel, thấp nhất kể từ ngày 1/11/2018.
Giá lúa mì kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn Chicago giảm 6-3/4 US cent xuống 4,57-3/4 USD/bushel. Tính chung trong quý 1/2019, giá ngô giảm 4,9%, đậu tương giảm 1,2% và Giá dầu cọ tại Malaysia giảm trong tất cả các phiên giao dịch tuần vừ qua trong bối cảnh giá tại sàn Đại Liên (Trung Quốc) cũng giảm. Dầu cọ kỳ hạn tháng 6/2019 trên sàn Bursa (Malaysia) giảm 0,6% xuống 2.107 ringgit (516,3 USD)/tấn, trong phiên có lúc giảm 0,9% xuống 2.100 ringgit/tấn, thấp nhất kể từ ngày 19/3/2019. Tính chung cả tuần, giá giảm 2,8% và có tháng giảm thứ 2 liên tiếp, do dự kiến sản lượng và dự trữ dầu cọ Malaysia tăng. Tính chung cả quý, giá dầu cọ giảm 0,7%. Nguyên nhân bởi giá dầu đậu tương và dầu cọ trên sàn Đại Liên giảm, cụ thể dầu đậu tương kỳ hạn tháng 5/2019 giảm 0,9%, trong khi dầu cọ giao cùng kỳ hạn giảm 1,6%.
Giá cao su tại Tokyo phiên cuối tuần tăng theo xu hướng giá dầu tăng mạnh, bất chấp giá cao su tại Thượng Hải giảm nhẹ. Cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn TOCOM tăng 0,9 JPY lên 182,2 JPY/kg. Đồng thời, giá cao su TSR20 kỳ hạn giao cùng kỳ hạn trên sàn TOCOM tăng 1 JPY lên 161,5 JPY/kg. Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 20 CNY xuống 11.245 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá 28/2/2019
|
Giá 23/3
|
Giá 30/3
|
30/3 so với 29/2
|
30/3 so với 29/2 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
57,29
|
59,04
|
60,14
|
+0,84
|
+1,42%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
66,03
|
67,03
|
67,58
|
+0,48
|
+0,72%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
45.220,00
|
44.330,00
|
45.140,00
|
+130,00
|
+0,29%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,80
|
2,75
|
2,66
|
-0,05
|
-1,84%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
162,93
|
192,59
|
188,25
|
+1,86
|
+1,00%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
202,35
|
196,59
|
197,14
|
+0,07
|
+0,04%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
620,75
|
597,25
|
607,25
|
+5,75
|
+0,96%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
61.290,00
|
60.340,00
|
61.590,00
|
+480,00
|
+0,79%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.314,40
|
1.318,70
|
1.298,50
|
+3,20
|
+0,25%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.691,00
|
4.634,00
|
4.597,00
|
+15,00
|
+0,33%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
15,64
|
15,41
|
15,11
|
+0,14
|
+0,91%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
56,00
|
54,70
|
53,50
|
+0,30
|
+0,56%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
872,70
|
847,23
|
849,46
|
+9,96
|
+1,19%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.547,10
|
1.553,43
|
1.385,20
|
+38,17
|
+2,83%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
294,70
|
284,25
|
293,60
|
+6,35
|
+2,21%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.509,00
|
6.312,00
|
6.482,50
|
+122,50
|
+1,93%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.911,00
|
1.903,00
|
1.912,00
|
+9,00
|
+0,47%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.778,00
|
2.815,00
|
2.923,00
|
+56,00
|
+1,95%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
21.650,00
|
21.425,00
|
21.400,00
|
-20,00
|
-0,09%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
370,75
|
378,25
|
356,50
|
-17,50
|
-4,68%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
459,50
|
466,00
|
457,75
|
-6,75
|
-1,45%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
264,00
|
278,50
|
269,00
|
+4,25
|
+1,61%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,63
|
11,21
|
10,85
|
-0,05
|
-0,50%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
910,25
|
903,75
|
884,25
|
-5,25
|
-0,59%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
306,00
|
315,00
|
306,50
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
30,25
|
28,66
|
28,36
|
-0,27
|
-0,94%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
469,20
|
453,90
|
455,30
|
+0,10
|
+0,02%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.247,00
|
2.159,00
|
2.280,00
|
+23,00
|
+1,02%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
98,45
|
93,90
|
94,50
|
+0,50
|
+0,53%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,78
|
12,57
|
12,53
|
0,00
|
0,00%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
117,30
|
129,85
|
119,90
|
-3,90
|
-3,15%
|
Bông
|
US cent/lb
|
72,82
|
76,58
|
77,61
|
+1,74
|
+2,29%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
391,40
|
368,30
|
360,20
|
-14,70
|
-3,92%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
202,20
|
188,30
|
182,10
|
-0,10
|
-0,05%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,36
|
1,43
|
1,35
|
-0,03
|
-2,24%
|
Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters
Nguồn:Vinanet