menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG năm 2018: Giá hầu hết giảm, dầu và kim loại giảm mạnh

23:45 28/12/2018

Vinanet -Năm 2018 hầu hết các mặt hàng chủ chốt đều giảm giá.
Năng lượng: Giá dầu thô giảm mạnh%
Phiên cuối năm 2018, giá dầu Brent tăng 59 cent (khoảng 1,1%) so với phiên trước đó, đạt 53,80 USD/thùng, trong khi dầu thô WTI tăng 8 cent đạt 45,41 USD/thùng. Tuy nhiên, tính chung cả tháng 12/2018, giá giảm khoảng 5 USD/thùng; trong quý 4/2018 giá giảm hơn 1/3 - mức giảm hàng quý mạnh nhất kể từ quý IV/2014. Tính chung cả năm 2018, giá dầu thô kỳ hạn giao sau tại Mỹ(WTI) giảm gần 25%, trong khi Brent giảm hơn 19,5%.
Đây là năm giá dầu thô giảm đầu tiên kể từ 2015. Nguyên nhân là do lo ngại dư cung và các yếu tố tác động liên quan tới lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran, khiến người mua lảng tránh thị trường trong quý cuối năm.
Trong 10 tháng đầu năm 2018, giá dầu Brent đã tăng gần 1/3, lên mức cao 86,74 USD, mức cao nhất kể từ cuối năm 2014 do lo ngại lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran, gây lo ngại thiếu hụt nguồn cung. Tuy nhiên, khi Washington đưa ra các miễn trừ trừng phạt bất ngờ cho những người mua dầu lớn nhất của Iran, cùng với mối lo ngại về tình trạng dư cung toàn cầu và tăng trưởng kinh tế chậm chạp đã ép giá sụt giảm mạnh trong quý cuối năm.
Mỹ đã vượt qua Nga và Saudi Arabia để trở thành nước sản xuất hàng đầu thế giới vào năm 2018, với mức cao nhất mọi thời đại hơn 11,5 triệu thùng/ngày vào tháng 10/2018, Thông tin năng lượng Mỹ vừa cho biết.
Sang năm 2019, các nhà phân tích của hãng Reuters dự kiến giá sẽ giảm. Kết quả của cuộc khảo sát 32 nhà kinh tế và phân tích của hãng Reuters cho thấy giá Brent trung bình dự kiến đạt 69,13 USD trong năm 2019, tăng 5 USD so với dự đoán của nhà phân tích một tháng trước, và so với mức giá trung bình năm 2018 là 71,76 USD. Giá dầu thô nhẹ của Mỹ sẽ đạt trung bình 61,05 USD/thùng vào năm 2019, so với 67,45 USD dự kiến trong cuộc thăm dò trước đó sau khi đạt trung bình 64,98 USD trong năm 2018.
Việc OPEC và các đồng minh đã nhất trí giảm sản lượng 1,2 triệu thùng/ngày, tương đương 1% lượng tiêu thụ toàn cầu, kể từ ngày 1/1/2019 sẽ là các yếu tố hỗ trợ giá dầu.
Nhiều nhà phân tích dự kiến nhu cầu tiêu thụ dầu thế giới sẽ tăng hơn 1 triệu thùng/ngày trong năm 2019, so với mức tăng 1,54 triệu thùng/ngày trong năm 2018, theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ.
Kim loại quý: Giá vàng giảm nhẹ, palađi tăng mạnh
Phiên giao dịch cuối năm, giá vàng giao ngay tăng 0,1% so với phiên trước đó, đạt 1.281,15 USD/ounce; trong phiên có lúc đạt mức cao nhất kể từ 15/6/2018 là 1.284,09 USD/ounce. Vàng kỳ hạn giao sau giảm 0,1% còn 1.281,30 USD/ounce.
Giá vàng đã có sự khởi đầu tốt trong năm 2018 nhưng cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung đẩy USD tăng cao, ép CNY giảm mạnh khiến giá vàng bị rớt giá, nhà phân tích Georgette Boele của ABN AMRO cho biết. Trong tháng 12, đồng CNY ổn định và USD suy yếu đã hỗ trợ giá vàng tăng 5%, tháng tăng mạnh nhất kể từ 1/2017. Trong quý cuối năm 2018, giá vàng tăng 7,2%, tuy nhiên tính chung cả năm 2018 giảm 1,6%, năm giảm đầu tiên kể từ 2015 do USD vững giá gây ra bởi những căng thẳng thương mại Mỹ-Trung và Cục dự trữ Liên Bang Mỹ tăng lãi suất. Giá bạch kim kết thúc năm tăng 0,1% còn 790,49 USD so với phiên trước đó, song giảm 14% trong năm 2018. Bạch kim, được sử dụng chủ yếu trong các xe chạy diesel, hiện không còn được ưa chuộng kể từ khi vụ bê bối gian lận khí thải của Volkswagen năm 2015.
Giá bạc tăng 0,7% đạt 15,44 USD/ounce trong phiên giao dịch song giảm 8,7% trong năm 2018.
Riêng palađi tăng mạnh gần 19% trong năm 2018, là năm tăng thứ 3 liên tiếp, do nguồn cung toàn cầu thiếu hụt trong khi nhu cầu tiêu thụ mạnh, đẩy giá kim loại này lần đầu tiên sau 16 năm lên cao hơn so với vàng thỏi.
Kim loại cơ bản: Giá thấp nhất kể từ 2015
Giá kim loại công nghiệp đã kết thúc năm 2018 giảm mạnh nhất trong vòng nhiều năm do những dấu hiệu cho thấy tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc chậm lại và căng thẳng thương mại Mỹ - Trung vẫn dai dẳng.
Đồng, nhôm, kẽm và nickel đều giảm giá khoảng 16 đến 26% trong năm 2018 vì giới đầu tư lo sợ nhu cầu kim loại sẽ sụt giảm, mặc dù nhiều loại đang bị thiếu cung và dự trữ giảm thấp.
Trung Quốc là nước tiêu thụ tới một nửa kim loại công nghiệp toàn cầu, do đó những động thái liên quan tới Trung Quốc đều tác động tới thị trường kim loại.
Đồng trên sàn London giảm 0,5% trong phiên cuối tháng, xuống mức 5.965 USD/tấn, và giảm 17,7% trong năm 2018, nhiều nhất kể từ 2015.
Nhôm – sử dụng chủ yếu trong ngành vận tải và bao gói hàng hóa, tăng 0,1% trong phiên cuối tháng lên 1.846 USD/tấn, nhưng cũng giảm 18,6% trong năm 2018 – nhiều nhất kể từ 2015, sau khi hãng Rusal của Nga – hãng sản xuất lớn nhất ngoài thị trường Trung Quốc – tháng 12/2018 đã đạt được thỏa thuận với các nhà lãnh đạo Mỹ để được xóa tên khỏi danh sách bị trừng phạt và cho phép bán nhôm trở lại trên thị trường thế giới.
Chỉ số chung 6 kim loại cơ bản chủ chốt trên sàn London đã giảm 18% trong năm 2018 và đánh mất gần một nửa mức tăng có được từ đầu năm 2016 – khi chỉ số này đạt mức cao nhất 6,5 năm – đến giữa năm 2018.
Nông sản: Cacao tăng mạnh; đường, cà phê đều giảm
Giá ca cao kết thúc năm 2018 tăng mạnh, hợp đồng giao tháng 3/2018 trên sàn London tăng 2 GBP lên 1.766 GBP/tấn, sau khi có lúc đạt mức cao nhất kể từ tháng 7/2018. Tính chugn cả năm 2018, giá tăng gần 30%, phục hồi từ mức thấp nhất 6 năm, do thời tiết khô hạn tại nhà sản xuất hàng đầu Bờ Biển Ngà đã thúc đẩy hoạt động đầu cơ, mặc dù nguồn cung hiện đang tăng.
Giá đường thô cuối năm ở mức 12,03 UScent/lb, giảm 20,6% so với năm ngoái, trong khi đường trắng kết thúc năm ở mức 332,50 USD/tấn, giảm 15,8% so với năm 2017.
Giá trong năm 2018 bị áp lực bởi nguồn cung toàn cầu dồi dào, triển vọng sản lượng tăng từ Ấn Độ, nước đã vượt Brazil trở thành nhà sản xuất đường hàng đầu thế giới.
Việc Ấn Độ phê duyệt trợ cấp xuất khẩu mới vào tháng 9/2018, đã khiến các đại lý lo ngại nguồn cung dư thừa, ép giá đường thô xuống còn 9,83 Uscent/lb, mức thấp nhất kể từ năm 2008.
Cà phê kỳ hạn tại ICE đóng cửa năm 2018 giảm nhẹ. Năm 2018, giá cà phê tại cả thị trường London và New York đều sụt giảm do nguồn cung dồi dào ở các khu vực trồng cà phê lớn và áp lực từ đồng tiền Brazil.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 3/2019 đóng cửa năm 2018 ở mức 1,0185 USD/lb, tăng 0,9 UScent so với phiên trước đó. Giá cà phê đã giảm 19,4% so với cuối năm 2017.
Giá cà phê Robusta kỳ hạn giảm 3 USD so với phiên trước đó và kết thúc năm giảm 11,2% so với năm ngoái còn 1.525 USD/tấn.
Vào tháng 9/2018, giá cà phê Arabica đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 2005, xuống còn 92 Uscent/lb, do nguồn cung dồi dào và đồng real yếu.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

29/12/17

30/11/18

28/12/18

Dầu thô WTI

USD/thùng

60,42

50,93

45,41

Dầu Brent

USD/thùng

66,87

58,71

53,80

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

44.260,00

40.750,00

35.910,00

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,95

4,61

2,94

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

179,58

144,13

130,21

Dầu đốt

US cent/gallon

206,81

184,55

167,94

Dầu khí

USD/tấn

601,75

545,00

511,25

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

59.340,00

56.190,00

52.290,00

Vàng New York

USD/ounce

1.309,30

1.226,00

1.281,30

Vàng Tokyo

JPY/g

4.707,00

4.450,00

4.526,00

Bạc New York

USD/ounce

17,15

14,22

15,54

Bạc TOCOM

JPY/g

61,70

51,70

54,40

Bạch kim

USD/ounce

928,25

798,10

795,95

Palladium

USD/ounce

1.063,52

1.181,09

1.261,02

Đồng New York

US cent/lb

330,05

278,75

263,10

Đồng LME

USD/tấn

7.247,00

6.198,00

5.965,00

Nhôm LME

USD/tấn

2.268,00

1.958,00

1.846,00

Kẽm LME

USD/tấn

3.319,00

2.542,00

2.467,00

Thiếc LME

USD/tấn

20.025,00

18.400,00

19.475,00

Ngô

US cent/bushel

350,75

377,75

375,00

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

427,00

515,75

503,25

Lúa mạch

US cent/bushel

241,00

292,25

275,25

Gạo thô

USD/cwt

11,91

10,89

10,37

Đậu tương

US cent/bushel

961,75

894,75

895,00

Khô đậu tương

USD/tấn

316,80

310,50

309,90

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,26

28,06

27,85

Hạt cải WCE

CAD/tấn

488,70

479,40

484,20

Cacao Mỹ

USD/tấn

1.892,00

2.203,00

2.416,00

Cà phê Mỹ

US cent/lb

126,20

107,55

101,85

Đường thô

US cent/lb

15,16

12,84

12,03

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

136,85

143,95

125,80

Bông

US cent/lb

78,63

78,91

72,20

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

441,90

323,90

337,00

Cao su TOCOM

JPY/kg

207,00

160,70

168,10

Ethanol CME

USD/gallon

1,35

1,25

1,27

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg

Nguồn:Vinanet