Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cho biết Fed có khả năng sẽ kiên nhẫn trong vấn về chính sách đã khiến các chỉ số chính trên thị trường chứng khoán Mỹ tăng khá mạnh. Thời gian gần đây giá dầu có xu hướng đi theo sự diễn biến trên Phố Wall.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent Biển Bắc tăng 24 US cent (hay 0,4%) lên 61,68 USD/thùng. Đây là lần đầu tiên giá dầu Brent ghi nhận chuỗi tăng giá kéo dài chín ngày liên tiếp kể từ tháng 9/2007. Trong khi đó, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ tăng 23 US cent, hay 0,4% và chốt phiên ở mức 52,59 USD/thùng, đánh dấu phiên tăng giá thứ 9 liên tiếp và phá vỡ kỷ lục chuỗi ngày tăng giá dài nhất của năm 2010.
Thời gian gần đây, các thị trường tài chính toàn cầu đều đi lên trước những kỳ vọng rằng Washington và Bắc Kinh sẽ đảo ngược khả năng nổ ra cuộc chiến thương mại toàn diện. Nhưng đà tăng trên các thị trường toàn cầu bắt đầu yếu đi sau khi hai nước đưa ra những lời tuyên bố dù tích cực nhưng còn mơ hồ và thiếu những chi tiết cụ thể.
Tuy nhiên, ngân hàng Barclays dự báo dầu Brent sẽ vẫn trong phạm vi 55 tới 65 USD/thùng do dự trữ tăng trong những tháng tới, trong khi họ dự kiến thị trường trở lại trạng thái cân bằng vào nửa cuối năm 2019.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do USD mạnh lên. Giá vàng kỳ hạn giao sau đóng phiên giảm 0,4% xuống 1.287,4 USD/ ounce, vàng giao ngay giảm 0,4% xuống 1.288,28 USD/ ounce, sau khi có lúc tăng lên mức 1.297,08 USD/ ounce.
Chỉ số đồng USD - thước đo “sức khỏe” của đồng bạc xanh so với rổ các đồng tiền chủ chốt khác - phiên này tăng 0,4%, thoát khỏi mức thấp trong ba tháng. Đồng USD mạnh lên khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ các đồng tiền khác.
Giám đốc bộ phận giao dịch kim loại tại High Ridge Futures, David Meger, nhận định giá vàng phiên này còn chịu sự chi phối từ việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có ít khả năng tăng lãi suất. Chủ tịch Fed Jerome Powell ngày 10/1 cho biết Fed có khả năng để kiên nhẫn về chính sách tiền tệ giữa bối cảnh dữ liệu cho thấy giá cả ổn định, đồng thời trấn an thị trường rằng ngân hàng này ít khả năng tiến hành thêm hai lần tăng lãi suất trong năm nay.
Hai yếu tố khác kéo lùi giá vàng phiên này còn là diễn biến đàm phán thương mại thiếu rõ ràng giữa Mỹ và Trung Quốc cũng như dữ liệu từ Trung Quốc và Pháp làm dấy lên quan ngại về nền kinh tế toàn cầu.
Về những kim loại quý khác, giá bạc hạ gần 1% xuống 15,6 USD/ounce; giá bạch kim mất 0,6% xuống 820,2 USD/ounce; giá palađi giảm 1,02% xuống 1.312,99 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do những lạc quan về kết quả đàm phán thương mại Mỹ - Trung đang mất dần và số liệu yếu kém của Trung Quốc, cho dù tình trạng cung cầu vẫn hạn hẹp. Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London LME kết thúc phiên giảm 0,5% xuống 5.928 USD/tấn, kết thúc 3 ngày tăng. Kim loại này đã giảm 18% trong năm 2018 và giảm 0,1% trong năm nay.
Trung Quốc cho biết 3 ngày đàm phán tại Bắc Kinh đã thiết lập "một nền tảng" để giải quyết sự khác biệt giữa hai nước, nhưng không đưa ra cách thức chi tiết về các vấn đề chính đang bị đe dọa. Đồng thời, nước tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới này đã công bố số liệu cho thấy giá xuất xưởng tăng ở tốc độ chậm nhất trong hơn hai năm.
Sản lượng đồng tại Chile, nơi sản xuất hàng đầu thế giới kim loại đỏ này, đã đạt 5,33 triệu tấn trong tháng 11/2018, tăng 6% so với tháng 11/2017.
Thiếc tăng nhẹ lên 20.140 USD/tấn, trong phiên có lúc giá đạt 2.200 USD, cao nhất trong 6 tháng. Ngân hàng Commerzbank cho biết "giá tăng có thể bị kích thích bởi lo ngại về nguồn cung, Indonesia – nhà xuất khẩu thiếc hàng đầu thế giới – đã xuất khẩu thiếc ít hơn kể từ tháng 10/2018". Dự trữ thiếc trên sàn LME ở mức thấp nhất trong 20 năm chỉ 1.505 tấn, giảm 50% kể từ giữa tháng 12/2018.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2019 đóng cửa giảm 0,2 US cent hay 1,6% xuống 12,67 US cent/lb. Hợp đồng này có phiên đóng cửa giảm lần đầu tiên trong 5 phiên, sau khi giá đạt mức cao nhất 5 tuần tại 12,94 US cent/lb một ngày trước. Đường trắng kỳ hạn tháng 3/2019 đóng cửa giảm 3,6 USD hay 1% xuống 344,1 USD/tấn.
Đồng real của Brazil suy yếu cũng gây sức ép cho đường. Đồng real yếu không khuyến khích nhà sản xuất bán ra các hàng hóa định giá bằng đồng USD như đường và cà phê.
Ấn Độ có thể xuất khẩu 2,5 triệu tới 3,5 triệu tấn đường trong niên vụ 2018/19 bắt đầu từ 1/10/2018, thấp hơn nhiều mục tiêu chính thức 5 triệu tấn.
Cà phê arabica cũng giảm trong phiên vừa qua, mất 1,05 US cent tương đương 1% xuống 1,0425 USD/lb, trong khi robusta tăng 1 USD tương đương 0,07% lên 1.536 GBP/tấn.
Tại châu Á, nông dân tại Tây Nguyên, khu vực trồng cà phê chủ chốt của nước ta, đã bán cà phê ở mức 33.500 – 34.000 đồng/kg trong ngày 10/1, so với 33.200 – 33.700 đồng một tuần trước đó. Cà phê robusta loại 2 với 5% hạt đen và vỡ được chào ở mức trừ lùi 40 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2019 trên sàn giao dịch London, một tuần trước mức trừ lùi 45 – 50 USD/tấn.
Reuters dẫn lời một thương nhân tại thành phố Hồ Chí Minh cho biết mặc dù sản lượng thấp hơn, giá trong nước không tăng do các yếu tố bên ngoài, trong đó có cả các dự báo của các đại lý nước ngoài.
Các thương nhân tại Việt Nam giảm dự báo sản lượng cà phê 10% trong tuần này khi vụ thu hoạch bội thu tại nước trồng cà phê robusta lớn nhất thế giới đi đến hồi kết.
Dự đoán mới hiện nay là sản lượng khoảng 27 triệu bao (60kg/bao) cho niên vụ 2018/19 (bắt đầu từ ngày 1/10/2018) so với 30 triệu bao dự báo trước đó.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng 1/2019 được dự báo từ 150.000 tấn tới 180.000 tấn so với ước tính 160.000 tấn trong tháng 12/2018.
Trong khi đó tại Indonesia, giao dịch tiếp tục trầm lắng, robusta loại 4 khiếm khuyết 80 ở mức cộng 20 – 30 USD so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2019, không đổi trong tuần thứ 4 liên tiếp.
Vụ thu hoạch robusta chính tại nam Sumatra thường diễn ra vào khoảng giữa năm, nhưng một vụ thu hoạch phụ nhỏ hơn thường trước đó vài tháng.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo giảm trong phiên vừa qua, mất chuỗi tăng 4 ngày và giảm từ mức cao nhất 7 tháng đạt được trong phiên trước đó, bởi các nhà đầu tư chốt lời.
Hợp đồng cao su trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) kỳ hạn tháng 6/2019 đóng cửa giảm 2,5 JPY hay 1,3% xuống 183,2 JPY/kg.
Chỉ số Nikkei của Nhật Bản giảm điểm do đồng JPY tăng thúc đẩy các nhà đầu tư chốt lời sau một đợt tăng mạnh. Cao su TSR 20 kỳ hạn tháng 7/2019 giảm 1,9% xuống 154,0 JPY/tấn.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 125 CNY đóng cửa tại 11.640 CNY (1.717 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
52,59
|
+0,24
|
+0,4%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
61,68
|
+0,23
|
+0,4%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
40.180,00
|
+350,00
|
+0,88%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,02
|
+0,05
|
+1,58%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
141,99
|
-1,08
|
-0,75%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
189,59
|
-1,02
|
-0,54%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
571,50
|
+1,00
|
+0,18%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
55.560,00
|
+760,00
|
+1,39%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.289,10
|
-1,70
|
-0,13%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.480,00
|
-6,00
|
-0,13%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
15,64
|
0,00
|
-0,02%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
54,30
|
-0,50
|
-0,91%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
820,26
|
-0,10
|
-0,01%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.328,80
|
+2,76
|
+0,21%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
264,30
|
-1,40
|
-0,53%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.958,00
|
+52,00
|
+0,88%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.852,50
|
-12,00
|
-0,64%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.492,00
|
+7,00
|
+0,28%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
20.065,00
|
+125,00
|
+0,63%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
377,75
|
+1,50
|
+0,40%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
514,25
|
+0,50
|
+0,10%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
288,75
|
0,00
|
0,00%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,86
|
+0,01
|
+0,09%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
909,00
|
+2,25
|
+0,25%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
316,70
|
-0,10
|
-0,03%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
28,24
|
+0,05
|
+0,18%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
480,90
|
+0,40
|
+0,08%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.369,00
|
+18,00
|
+0,77%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
104,25
|
-1,05
|
-1,00%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,67
|
-0,20
|
-1,55%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
122,20
|
-2,50
|
-2,00%
|
Bông
|
US cent/lb
|
72,85
|
-0,28
|
-0,38%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
346,40
|
+10,10
|
+3,00%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
184,00
|
+0,80
|
+0,44%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,27
|
-0,01
|
-0,86%
|
Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters
Nguồn:Vinanet