Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do dự trữ của Mỹ giảm và thông tin Saudi Arabia muốn giá dầu tiến sát mốc 100 USD/thùng.
Dầu Brent kết thúc phiên tăng 1,9 USD, hay 2,7% lên 73,48 USD/thùng; trong khi đó dầu thô ngọt nhẹ (WTI) tăng 1,95 USD (2,9%) lên 68,47 USD/thùng, mức cao nhất kể từ cuối năm 2014.
Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho thấy lượng dự trữ của Mỹ tuần qua sụt giảm, trong đó, dự trữ xăng và các sản phẩm chưng cất giảm mạnh hơn dự đoán do nhu cầu tăng mạnh; dự trữ dầu thô giảm 1,1 triệu thùng do lượng dầu thô nhập khẩu ròng giảm 1,3 triệu thùng/ngày.
Trong khi đó, nguồn tin trong ngành dầu mỏ cho biết nước xuất khẩu dầu hàng đầu thế giới Saudi Arabia muốn giá dầu tăng lên mức 80 USD hay thậm chí là 100 USD/thùng, một dấu hiệu cho thấy Riyadh sẽ kiên định với thỏa thuận cắt giảm sản lượng dù các nước đã đạt được mục tiêu ban đầu của thỏa thuận này.
Nhiều người tin tưởng Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) sẽ duy trì thỏa thuận cắt giảm sản lượng. Ủy ban gồm các bộ trưởng dầu mỏ của các nước OPEC, có nhiệm vụ giám sát việc thực thủ thỏa thuận này của các nước trong và ngoài tổ chức này, sẽ diễn ra ở thành phố Jeddah ở Saudi Arabia vào ngày 20/4 tới.
Dầu cũng được hưởng lợi khi giới đầu tư cho rằng tình hình căng thẳng ở Trung Đông có thể khiến nguồn cung bị gián đoạn, trong đó có tác động từ các lệnh trừng phạt mới của Mỹ đối với Iran, cũng như sản lượng dầu đang sa sút của quốc gia đang bị khủng hoảng Venezuela.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng khi giới đầu tư lại tìm tới nơi trú ẩn an toàn. Vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.349,71 USD/ounce, trong khi đó vàng giao tháng 6/2018 tăng 0,3% (4 USD) và khép phiên ở mức 1.353,5 USD/ounce.
Khả năng Mỹ sẽ tiếp tục áp các lệnh trừng phạt lên Nga, cũng như những bất ổn xung quanh tranh chấp thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc khiến vàng lại hấp dẫn đối với giới giao dịch.
Chỉ số đồng USD –thước đo "sức khỏe" của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác – có xu hướng lùi về mức thấp của ba tuần được ghi nhận hôm 17/4. Giá vàng luôn nhạy cảm với những biến động của đồng USD, do một khi đồng bạc xanh mạnh lên sẽ khiến sức hấp dẫn của các tài sản an toàn như vàng giảm đáng kể.
Nhà phân tích Carlo Alberto De Casa thuộc công ty môi giới đầu tư Activtrades nhận định, nếu giá vàng có thể duy trì trên mức 1.350 USD/ounce trong một vài phiên tới, hoàn toàn có khả năng kim loại quý này sẽ tiến tới mức 1.400 USD/ounce.
Về những kim loại quý khác, giá bạc đã tăng 2,7% lên 17,19 USD/ounce sau khi đã có lúc chạm mức cao nhất kể từ ngày 1/2 là 17,26 USD/ounce; giá bạch kim tăng 0,3% lên 938,5 USD/ounce, sau khi hồi đầu phiên đã đạt mức cao nhất trong vòng ba tuần là 948,7 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá nhôm cao nhất trong gần 7 năm do gia tăng lo ngại về nguồn cung sau các biện pháp trừng phạt của Mỹ đối với Rusal. Hợp đồng nhôm giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 5,5% lên 2.537 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 2.537,5 USD/tấn, mức cao nhất trong gần 7 năm sau khi nhà khai thác mỏ toàn cầu Rio Tinto có thể sẽ điều chỉnh giảm sản lượng nhôm năm 2018 sau các biện pháp trừng phạt của Mỹ đối với Rusal Nga. Mối lo ngại về ảnh hưởng của các biện pháp trừng phạt đối với Rusal, đẩy giá nhôm tăng 25% kể từ ngày 6/4.
Giá nickel cũng tăng mạnh lên mức cao nhất 3 năm do các yếu tố kỹ thuật và lo ngại về các biện pháp trừng phạt bổ sung đối với Nga. Nickel giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 12% lên 15.875 USD/tấn, mức cao nhất trong hơn 3 năm, trước lúc đóng cửa tăng 7,5% lên 15.275 USD/ounce, ngày tăng mạnh nhất trong 6 năm rưỡi. Tính đến tháng 3/2018, Indonesia đã xuất khẩu 8.637.595 tấn quặng nickel kể từ khi chính sách xuất khẩu quặng của nước này được điều chỉnh trong tháng 1/2017. Với những kim loại khác, giá đồng tăng 2,1% lên 7.022 USD/tấn, giá kẽm tăng 3,5% lên 3.265 USD/tấn, giá chì tăng 1,2% lên 2.377 USD/tấn trong khi giá thiếc không thay đổi ở mức 21.475 USD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao kỳ hạn tháng 7 tăng 1,3 cent tương đương 1,1% lên 1,1715 USD/lb và giá cà phê robusta giao kỳ hạn tháng 7 tăng 18 USD tương đương 1% lên 1.772 USD/tấn.
Đường cũng tăng, với đường thô kỳ hạn giao tháng 7 tăng 0,09 cent tương đương 0,8% lên 11,91 cent/lb, sau khi trong phiên có lúc chạm 11,77 cent/lb – mức thấp nhất kể từ tháng 9/2015; đường trắng giao kỳ hạn tháng 8 tăng 5,3 USD/tấn, tương đương 1,6% lên 341,1 USD/tấn.
Sản lượng đường Thái Lan trong năm marketing 2017/18 và 2018/19 được dự kiến sẽ tăng đáng kể lên mức cao kỷ lục 13-14 triệu tấn. Tuy nhiên, tiêu thụ sẽ giảm 1-2% trong năm marketing 2017/18 và 2018/19, do thuế đường nước giải khát mới. Điều này được dự kiến sẽ khiến xuất khẩu đường của Thái Lan đạt mức cao kỷ lục.
Cao su tại Tokyo cũng tăng phiên thứ 2 liên tiếp theo xu hướng giấ tại Thượng Hải tăng và do đồng yên suy yếu so với đồng USD, nhưng lo ngại tồn kho gia tăng đã hạn chế đà tăng.
Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên sàn TOCOM tăng 2,1 JPY tương đương 1,2% lên 182,3 JPY (1,7 USD)/kg. Tại Thượng Hải hợp đồng cao su giao tháng 9 tăng 80 NDT lên 11.190 NDT (1.781 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 5 trên sàn SICOM tăng 0,4 cent lên 137,2 UScent/kg. Đồng USD tăng 0,3% lên 107,295 yên sau khi giảm xuống 106,885 yên trong phiên trước đó, được hậu thuẫn bởi nguy cơ rủi ro cải thiện khiến nhu cầu đối với đồng yên suy giảm, đồng tiền thường được tìm kiếm khi thị trường khủng hoảng và căng thẳng chính trị. Dự trữ cao su tại kho ngoại quan Thượng Hải tăng 0,3% so với hôm 4/4. Dự trữ cao su tại TOCOM tính đến 31/3 đạt 13.018 tấn, tăng 464 tấn so với hôm 20/3 và gần gấp 9 lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
68,47
|
+1,95
|
+2,9%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
73,489
|
+1,9
|
+2,7%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
45.490,00
|
+880,00
|
+1,97%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,74
|
+0,00
|
+0,11%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
207,69
|
+0,86
|
+0,42%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
209,79
|
+0,68
|
+0,33%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
641,75
|
+2,50
|
+0,39%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
62.130,00
|
+1.220,00
|
+2,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.351,50
|
-2,00
|
-0,15%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.648,00
|
+19,00
|
+0,41%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,17
|
-0,08
|
-0,45%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
58,50
|
+0,90
|
+1,56%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
943,85
|
+2,52
|
+0,27%
|
Palladium giao ngay
|
USD/ounce
|
1.035,38
|
-1,23
|
-0,12%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
317,65
|
-0,50
|
-0,16%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
7.022,00
|
+145,00
|
+2,11%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.537,00
|
+132,00
|
+5,49%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
3.265,00
|
+111,00
|
+3,52%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
21.475,00
|
0,00
|
0,00%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
391,75
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
493,00
|
+3,75
|
+0,77%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
236,75
|
+0,75
|
+0,32%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
13,18
|
+0,02
|
+0,15%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.052,75
|
-0,50
|
-0,05%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
381,30
|
+0,10
|
+0,03%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
31,63
|
-0,06
|
-0,19%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
527,00
|
0,00
|
0,00%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.800,00
|
+96,00
|
+3,55%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
117,15
|
+1,30
|
+1,12%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
11,91
|
+0,09
|
+0,76%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
144,70
|
-0,95
|
-0,65%
|
Bông
|
US cent/lb
|
82,51
|
-0,10
|
-0,12%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
550,70
|
+8,60
|
+1,59%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
182,40
|
+0,10
|
+0,05%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,50
|
+0,03
|
+1,83%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet