Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng trở lại giá dầu tăng trở lại do bất ổn tăng cao liên quan đến hoạt động sản xuất dầu thô tại Libya và trước thềm phiên họp của các nước sản xuất dầu thô chủ chốt trên thế giới.
Kết thúc phiên giao dịch, Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 10/2016 trên sàn New York tăng 27 US cent, tương ứng 0,6%, lên 43,30 USD/thùng. Giá dầu Brent giao tháng 11/2016 trên sàn London tăng 18 cent, tương đương 0,4%, lên 45,95 USD/thùng.
Các quan chức Libya tuần trước cho biết, họ đang lên kế hoạch tái khởi động việc xuất khẩu dầu thô từ các cảng dầu đã bị tạm dừng từ lâu nay, nhưng kế hoạch này đã gặp trở ngại sau cuộc đụng độ tại các cảng dầu chủ chốt ở phía Đông Libya hôm cuối tuần trước.
Sản lượng dầu thô của Libya hiện ở mức 300.000 thùng/ngày, thấp hơn rất nhiều so với công suất tối đa của nước này. Các quan chức Libya cho rằng sản lượng dầu thô có thể tăng lên nhanh chóng nếu các cảng dầu vẫn mở cửa và an toàn trong một thời gian dài. Nếu sản lượng dầu của Libya tăng, giá dầu sẽ chịu áp lực do tình trạng thừa cung sẽ tiếp tục kéo dài dai dẳng.
Giới đầu tư cũng đang theo dõi những tín hiệu từ OPEC và các nước sản xuất dầu chủ chốt khác trước thềm phiên họp không chính thức vào tuần tới.
Các nước thành viên OPEC, kể cả Arab Saudi, những tuần gần đây, đã lên tiếng ủng hộ hành động chung để hỗ trợ giá dầu. Nhưng Tổng thư ký OPEC Mohammed Barkido hôm thứ Bảy 17/9 cho biết, sẽ không có quyết định nào được đưa ra trong phiên họp tại Algeria và tuần tới, xóa tan hy vọng sẽ có thỏa thuận đóng băng sản lượng.
Tuy nhiên, Tổng thống Venezuela Nicolas Maduro lại tuyên bố rằng các nước thành viên OPEC cũng như các nước ngoại khối đang tiến gần hơn đến thỏa thuận về việc đóng băng sản lượng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng hồi phục từ mức thấp nhất 2 tuần do USD yếu đi. Tuy nhiên, đà tăng giá của mặt hàng này bị hạn chế trước thềm phiên họp của Fed.
Giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.313,39 USD/ounce, từ mức thấp nhất kể từ 1/9 là 1.306,26 USD/ounce ngày 16/9. Giá vàng giao tháng 12/2016 tại New York tăng 0,6% lên 1.317,8 USD/ounce.
Ngân hàng trung ương Mỹ (Fed) sẽ bắt đầu phiên họp 2 ngày vào thứ Ba (20/9) và ra thông báo vào lúc 14h00 giờ địa phương vào thứ Tư (21/9). Giới đầu tư dự đoán rằng Fed sẽ vẫn giữ nguyên lãi suất nhưng có thể phát tín hiệu rõ ràng hơn về lộ trình thắt chặt chính sách tiền tệ, có thể vào tháng 12.
Nếu lãi suất được giữ nguyên, USD sẽ chịu áp lực trong khi hỗ trợ giá vàng.
Chỉ số Đôla ICE, theo dõi sức mạnh của đồng bạc xanh với 6 đồng tiền chủ chốt, giảm 0,3% xuống 95,822 điểm. Trong khi đó, Chỉ số Đôla Wall Street Journal, theo dõi USD với 16 đồng tiền trong giỏ tiền tệ, giảm 0,3% xuống 86,91 điểm.
Bên cạnh đó, giới đầu cơ giá vàng tăng còn lo ngại về đà tăng của lợi tức trái phiếu Mỹ. Tuy nhiên, việc giới đầu tư Trung Quốc quay lại thị trường sau kỳ nghỉ Tết Trung thu được kỳ vọng sẽ giúp hỗ trợ giá vàng với ngưỡng hỗ trợ kỹ thuật ở 1.305 USD/ounce - mức bình quâ 100 ngày.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 1,9% lên 19,12 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,7% lên 1.021,6 USD/ounce và giá palladium tăng 1,9% lên 682,97 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, cà phê đồng loạt tăng giá do lo ngại sản lượng cà phê Brazil thấp hơn dự đoán. Giá Robusta tại London tăng 23-25 USD/tấn, trong khi Arabica tại New York tăng 4,15-4,4 US cent/lb.
Thời tiết tại Brazil đang nóng lên, khô hạn trở lại và thị trường lo ngại ảnh hưởng xấu đến kỳ ra hoa của cây cà phê. Trong khi đó, các tỉnh Tây Nguyên đang lên kế hoạch trồng tái canh và ghép cải tạo mới thêm gần 19.000 ha cà phê đã già cỗi hết chu kỳ kinh doanh năng xuất kém. Như vậy, từ năm 2010 đến nay, các tỉnh Tây Nguyên đã trồng tái canh và ghép cải tạo được gần 80.000 ha cà phê.
Theo đề án tái canh, từ năm 2014 đến năm 2020 các tỉnh Tây Nguyên tái canh 120.000 ha cà phê, trong đó, trồng tái canh 90.000 ha, ghép cải tạo 30.000 ha, trong đó, tỉnh Lâm Đồng có kế hoạch trồng tái canh nhiều nhất với trên 45.600 ha, kế đến là tỉnh Đắk Lắk gần 30.000 ha.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
43,30
|
+0,27
|
+0,6%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
45,95
|
+0,18
|
+0,4%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
28.140,00
|
-300,00
|
-1,05%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,94
|
+0,01
|
+0,27%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
141,47
|
-0,61
|
-0,43%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
139,29
|
-0,15
|
-0,11%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
407,50
|
-10,75
|
-2,57%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
38.900,00
|
-560,00
|
-1,42%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.317,30
|
+0,50
|
+0,04%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.286,00
|
-8,00
|
-0,19%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
19,29
|
0,00
|
0,00%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
62,60
|
+0,70
|
+1,13%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.022,85
|
+1,90
|
+0,19%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
682,34
|
-3,23
|
-0,47%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
214,95
|
-0,70
|
-0,32%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.776,00
|
-12,00
|
-0,25%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.583,00
|
+7,50
|
+0,48%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.251,00
|
+36,00
|
+1,63%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.350,00
|
+250,00
|
+1,31%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
335,75
|
-1,50
|
-0,44%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
402,50
|
-1,50
|
-0,37%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
173,50
|
+0,50
|
+0,29%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,76
|
-0,05
|
-0,56%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
973,50
|
+1,00
|
+0,10%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
312,10
|
+1,00
|
+0,32%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,02
|
-0,06
|
-0,18%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
460,20
|
-1,00
|
-0,22%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.872,00
|
+69,00
|
+2,46%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
152,80
|
+4,40
|
+2,96%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
22,75
|
+0,28
|
+1,25%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
198,90
|
+2,20
|
+1,12%
|
Bông
|
US cent/lb
|
68,10
|
-0,40
|
-0,58%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
305,60
|
+1,70
|
+0,56%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
163,40
|
+5,70
|
+3,61%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,39
|
-0,01
|
-0,71%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet