Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm sau thông tin Iran có kế hoạch sẽ tăng sản lượng khai thác.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng trên sàn New York giảm 63 US cent xuống còn 46,35 USD/thùng, giá dầu Brent Biển Bắc giao cùng kỳ hạn tại London cũng giảm 89 US cent xuống còn 48,37 USD/thùng.
Bộ trưởng Dầu mỏ Iran Bijan Zangeneh cho biết nước ông có kế hoạch sẽ tăng sản lượng khai thác. Thông tin này được đưa ra trong cùng ngày trong bối cảnh Tehran đang cố lấy lại thị phần đã mất trong thời gian họ bị quốc tế áp đặt các lệnh cấm vận và trừng phạt.
Phó thủ tướng Iran tại một cuộc hội thảo ở Na Uy cho biết, nước này đang lên kế hoạch tăng sản lượng dầu thô thêm 200.000 thùng/ngày vào cuối năm nay. Iran đã nhiều lần nhắc lại rằng sẽ tăng sản lượng dầu thô sau khi các lệnh trừng phạt được dỡ bỏ hồi tháng 1 vừa qua.
Sản lượng khai thác dầu của Iran đang ở mức 3,8 triệu thùng dầu/ngày và kể từ khi được gỡ bỏ các lệnh cấm vận quốc tế hồi tháng Một năm nay, nước này đặt mục tiêu nâng sản lượng lên trên 4 triệu thùng dầu/ngày.
Đồng USD mạnh lên cũng là một trong những yếu tố khiến giá dầu đi xuống.
Những phiên gần đây, giá dầu dao động trong phạm vi hẹp trong bối cảnh có nhiều quan điểm trái chiều về tốc độ thu hẹp tình trạng thừa cung, trong khi dự trữ dầu thô và sản phẩm lọc dầu trên thế giới vẫn ở mức cao.
OPEC đã thông báo kế hoạch nhóm họp vào cuối tháng 9 để thảo luận các hành động cần thiết nhằm hỗ trợ giá dầu. Hồi tháng 4 vừa qua, khối này đã thảo luận việc đóng băng sản lượng nhưng không đạt được kết quả.
Giới đầu tư đang chờ số liệu về lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần kết thúc vào 26/8 do Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) công bố. Các nhà phân tích trong khảo sát của Wall Street Journal dự đoán, lượng dầu lưu kho của Mỹ tuần qua tăng 1,2 triệu thùng, trong khi nguồn cung xăng giảm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất 6 tuần trong bối cảnh giới quan sát đánh giá những phát biểu của các quan chức Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cho thấy thời điểm Fed tăng lãi suất chưa thật rõ.
Giá vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 1.312,71 USD/ounce, vàng giao tháng 12/2016 giảm 0,8% xuống 1.316,5 USD/ounce. Trong phiên, giá vàng giao ngay đã có thời điểm hạ xuống 1.311,65 USD/ounce – mức thấp nhất kể từ phiên ngày 21/7.
Chỉ số Đôla Wall Street Journal, theo dõi USD với 16 đồng tiền trong giỏ tiền tệ, tăng lên cao nhất 1 tháng khi giới đầu tư tiếp tục đánh giá viễn cảnh Fed nâng lãi suất trong năm nay.
Chủ tịch Fed Janet Yellen cuối tuần trước cho biết sự cải thiện của thị trường lao động và triển vọng tăng trưởng kinh tế Mỹ đang củng cố quan điểm nâng lãi suất của Fed, song bà Yellen không đề cập đến thời điểm cụ thể.
Thị trường đang dồn sự chú ý vào báo cáo việc làm tháng Tám của Mỹ, một chỉ dấu quan trọng khi đánh giá thị trường lao động nước này, sẽ được công bố trong tuần.
Trên thị trường nông sản, đậu tương giảm giá phiên thứ 7 liên tiếp, xuống mức thấp nhất gần 1 tháng bởi dự báo sản lượng bội thu.
Cà phê biến động trái chiều. Robusta trên sàn London giảm 2-3 USD/tấn, còn Arabica trên sàn New York tăng 0,75-1,05 cent/lb.
Giá cà phê Arabica tăng vào cuối phiên chủ yếu do lo ngại về sản lượng vụ mùa tới.
Commerbank cho biết, với 90% diện tích cà phê Brazil niên vụ 2016-2017 đã thu hoạch, sản lượng Arabica rõ ràng rất tích cực. Tuy nhiên, giá cà phê Arabica vẫn được duy trì tăng vì viễn cảnh niên vụ 2017-2018 bị lu mờ do lo ngại về điều kiện thời tiết khi một vài hiện tượng sương giá và thời tiết lạnh xuất hiện bất thường trong những tháng gần đây.
Theo Báo cáo Cam kết Thương nhân mới nhất, trong tuần kết thúc vào 23/8, giới đầu cơ phi thương mại trên sàn London đã giảm 6,62% vị thế mua ròng cà phê Robusta xuống 23.984 lô, tương ứng 3.997.333 bao.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
46,35
|
-0,63
|
-0,28%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
48,37
|
-0,89
|
-0,04%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
29.850,00
|
-310,00
|
-1,03%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,88
|
+0,03
|
+0,91%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
144,69
|
-0,14
|
-0,10%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
146,07
|
-1,04
|
-0,71%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
431,25
|
-1,75
|
-0,40%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
41.170,00
|
-190,00
|
-0,46%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.316,20
|
-0,30
|
-0,02%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.325,00
|
+3,00
|
+0,07%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
18,74
|
+0,07
|
+0,36%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
61,50
|
+0,20
|
+0,33%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.062,76
|
+5,66
|
+0,54%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
685,18
|
+5,91
|
+0,87%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
208,30
|
+0,65
|
+0,31%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.607,00
|
-8,00
|
-0,17%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.630,00
|
-12,50
|
-0,76%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.311,00
|
-3,50
|
-0,15%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
18.800,00
|
-90,00
|
-0,48%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
316,25
|
+0,50
|
+0,16%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
393,00
|
+0,75
|
+0,19%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
178,25
|
+0,75
|
+0,42%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,58
|
+0,06
|
+0,63%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
949,00
|
-1,75
|
-0,18%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
308,70
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,92
|
-0,22
|
-0,66%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
453,30
|
+0,30
|
+0,07%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.890,00
|
-35,00
|
-1,20%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
146,05
|
+0,95
|
+0,65%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
20,52
|
-0,15
|
-0,73%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
189,15
|
+0,05
|
+0,03%
|
Bông
|
US cent/lb
|
66,27
|
-0,02
|
-0,03%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
319,80
|
-2,90
|
-0,90%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
153,50
|
-0,50
|
-0,32%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,41
|
-0,01
|
-0,70%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet