Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng mạnh nhất kể từ tháng 4 khi số liệu cho thấy lượng dầu lưu kho của Mỹ bất ngờ giảm mạnh nhất kể từ năm 1999.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 10/2016 trên sàn New York tăng 2,12 USD, tương ứng 4,66%, lên 47,62 USD/thùng. Giá dầu Brent giao tháng 11/2016 trên sàn London tăng 2,01 USD, tương đương 4,19%, lên 49,99 USD/thùng.
Theo giới phân tích, giá dầu tăng do lượng dầu lưu kho của Mỹ bất ngờ giảm mạnh chủ yếu do thời tiết xấu khiến nhiều tàu chở dầu không thể dỡ hàng tại các cảng của Mỹ chứ không phải là dấu hiệu cho thấy tình trạng thừa cung đang giảm.
Giá dầu biến động lên xuống trong những tuần gần đây. Tin tức về những nỗ lực hạn chế sản lượng của các nước thành viên OPEC đẩy giá tăng, nhưng nhiều nhà phân tích cũng như giới đầu tư vẫn tỏ ra hoài nghi cuộc họp của OPEC có thể đi đến thỏa thuận đóng băng sản lượng.
Tuần này, giá dầu liên tục đi lên, tăng 10,33% trong 4 phiên vừa qua, nhưng vẫn dao động trong ngưỡng 40-50 USD/thùng trong bối cảnh bất ổn về việc liệu các nước sản xuất chủ chốt có tiến hành biện pháp để hạn chế sản lượng hay không.
Theo số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần kết thúc vào 2/9 giảm 14,5 triệu thùng, ghi nhận mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ năm 1999. Tổng lượng dầu thô và sản phẩm lọc dầu lưu kho thương mại của Mỹ giảm 13,7 triệu thùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm sau khi ECB giữ nguyên lãi suất ở mức thấp kỷ lục và không tăng cường biện pháp kích thích như dự đoán.
Giá vàng giao ngay giảm 0,6% xuống 1.337,4 USD/ounce, vàng giao tháng 12/2016 trên sàn Comex giảm 0,6% xuống 1.341,6 USD/ounce, ghi nhận phiên giảm thứ 2 liên tiếp.
Chứng khoán toàn cầu cũng giảm điểm khi Chủ tịch Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) Mario Draghi cho biết, ECB thậm chí chưa thảo luận về việc mở rộng chương trình nới lỏng định lượng.
Giá vàng mất đà tăng từ đầu tuần này khi số liệu số liệu việc làm phi nông nghiệp không như kỳ vọng khiến giới đầu tư giảm đặt cược Fed sẽ nâng lãi suất trong tháng 9, kéo giảm USD.
Phiên 8/9, giá vàng cũng chịu áp lực khi Chỉ số Đôla ICE, theo dõi sức mạnh của đồng bạc xanh với 6 đồng tiền chủ chốt, tăng 0,1% lên 95,052 điểm.
Tuần này thị trường sẽ đón nhận thêm số liệu kinh tế Mỹ, cho thấy liệu nền kinh tế Mỹ có đủ khỏe để Fed nâng lãi suất hay không.
Ủy ban Thị trường mở Liên bang Mỹ (FOMC) sẽ nhóm họp vào 20-21/9 tới đây.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,89% xuống 19,58 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,6% xuống 1.078,2 USD/ounce và giá palladium giảm 0,25% xuống 685,25 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, cà phê biến động nhiều chiều. Robusta trên sàn London tiếp tục tăng 11-15 USD/tấn, trong khi Arabica trên sàn New York có hợp đồng tăng giá, hợp đồng giảm giá và hợp đồng không thay đổi.
Giá cà phê Robusta đã tăng 7 phiên liên tiếp, đợt tăng dài nhất trong nhiều năm qua.
I&M Smith nhận định, thời tiết khô hạn tại các vùng trồng Robusta ở Brazil đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản lượng năm nay, đẩy tăng giá.
Jack Scoville tại Sucden Financial cho rằng thời tiết khô hạn tại Brazil lại xuất hiện và có thể ảnh hưởng đến thời điểm ra hoa của cây cà phê.
Giao dịch cà phê tại Việt Nam những ngày qua khá sôi động khi giá chạm ngưỡng kỳ vọng của nông dân.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 11 tháng đầu niên vụ 2015-2016 tăng 33,3% so với cùng kỳ năm trước lên 1,6 triệu tấn và có khả năng đạt 1,7 triệu tấn trong niên vụ này.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
47,62
|
+2,12
|
+4,66%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
49,99
|
+2,01
|
+4,9%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
30.300,00
|
+510,00
|
+1,71%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,81
|
0,00
|
0,00%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
140,26
|
-1,39
|
-0,98%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
147,44
|
-0,78
|
-0,53%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
433,00
|
-0,75
|
-0,17%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
41.270,00
|
+520,00
|
+1,28%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.342,20
|
-0,60
|
-0,04%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.375,00
|
-8,00
|
-0,18%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
19,70
|
+0,02
|
+0,11%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
64,00
|
-0,80
|
-1,23%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.087,65
|
+3,00
|
+0,28%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
688,45
|
+2,12
|
+0,31%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
210,20
|
+0,20
|
+0,10%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.664,00
|
+14,00
|
+0,30%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.590,50
|
-2,50
|
-0,16%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.314,00
|
-9,00
|
-0,39%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.575,00
|
+25,00
|
+0,13%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
337,50
|
-1,00
|
-0,30%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
404,25
|
-1,75
|
-0,43%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
177,50
|
-0,25
|
-0,14%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,57
|
+0,03
|
+0,26%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
975,00
|
-1,75
|
-0,18%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
316,20
|
-1,40
|
-0,44%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,34
|
+0,07
|
+0,21%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
463,30
|
+3,90
|
+0,85%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.885,00
|
-24,00
|
-0,83%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
154,90
|
-0,20
|
-0,13%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
20,22
|
-0,07
|
-0,34%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
195,75
|
+4,45
|
+2,33%
|
Bông
|
US cent/lb
|
69,31
|
+0,02
|
+0,03%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
308,20
|
-3,20
|
-1,03%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
159,30
|
+1,20
|
+0,76%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,45
|
+0,02
|
+1,61%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet