Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng trong phiên cuối tuần, góp phần đưa giá tăng tuần thứ 3 liên tiếp với hy vọng về thỏa thuận đóng băng sản lượng lấn át lo ngại về lượng dầu lưu kho.
Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 9/2016 trên sàn New York tăng 30 cent, tương ứng 0,6%, lên 48,52 USD/thùng, cao nhất trong vòng 7 tuần. Tính chung cả tuần giá dầu WTI tăng 9,1%, mức tăng lớn nhất kể từ tháng 3. Giá dầu Brent giao tháng109/2016 trên sàn London giảm nhẹ 1 cent xuống 50,88 USD/thùng nhưng cả tuần vẫn tăng 8,3%.
Thị trường dầu được hỗ trợ khi lượng dầu lưu kho và nguồn cung xăng của Mỹ giảm, USD suy yếu và có nhiều dấu hiệu cho thấy các nước sản xuất chủ chốt OPEC và ngoài OPEC có thể hành động để ổn định giá dầu.
Một số nước sản xuất lớn, kể cả Arab Saudi gần đây tuyên bố sẵn sàng tham gia các cuộc thảo luận về việc đóng băng sản lượng - nỗ lực tương tự đã thất bại hồi tháng 4 vừa qua.
Tuy vậy, giới phân tích cảnh báo rằng nguồn cung dầu thô và sản phẩm lọc dầu toàn cầu ở mức cao sẽ tiếp tục gây áp lực lên thị trường bởi sẽ khuyến khích các nhà sản xuất khoan thêm giếng dầu. Số giàn khoan của Mỹ chốt tuần kết thúc vào 19/8 tăng 10 giàn lên 406 giàn, ghi nhận tuần tăng thứ 8 liên tiếp, đợt tăng dài nhất trong hơn 2 năm qua, theo số liệu của Baker Hughes.
Morgan Stanley lo ngại lượng dầu lưu kho của Mỹ và toàn cầu sẽ lại tăng với mức giá hiện nay.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên cuối tuần giảm hơn 1%, chấm dứt mạch tăng 4 phiên liên tiếp do USD tăng trở lại sau tín hiệu từ các quan chức Fed về thời điểm có thể nâng lãi suất. Vàng giao ngay giảm 0,7% xuống 1.342,62 USD/ounce, vàng giao tháng 12/2016 giảm 0,8% xuống 1.346,2 USD/ounce. Tuy nhiên tính chung cả tuần giá vàng vẫn tăng 0,6%.
Tuần này, có nhiều tín hiệu trái chiều từ các nhà hoạch định chính sách Fed, khiến thị trường theo dõi sát sao hơn phiên họp thường niên của quan chức ngân hàng trung ương các nước trên thế giới tại Jackson Hole, Wyoming để có thêm manh mối về chính sách tiền tệ.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 2,6% xuống 19,23 USD/ounce, thấp nhất kể từ 21/7, giá bạch kim giảm 1,1% xuống 1.113,10 USD/ounce và giá palladium giảm 0,5% xuống 709,4 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng và các kim loại khác giảm trong phiên cuối tuần do USD tăng. Đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,3% xuống 4.798 USD/tấn nhưng tính chung cả tuần vẫn tăng 0,8% sau 2 tuần giảm.
Nhôm giao sau 3 tháng trên sàn London cũng giảm 1% xuống 1.667 USD/tấn do áp lực bán ra sau khi giá lên mức cao nhất 13 tháng trong phiên trước đó. Kẽm giảm 0,4% trong phiên vừa qua nhưng tăng 2,1% trong tuần – nhiều nhất một tháng.
Trên thị trường nông sản, giá ngô và đậu tương trên sàn Chicago đều giảm trong phiên cuối tuần nhưng tính chung cả tuần vẫn tăng, trong đó ngô tăng 3,3% trong tuần và là tuần tăng giá thứ 6, còn đậu tương tăng 2,3% và là tuần thứ 3 tăng trong số 4 tuần qua. Lúa mì tăng 1% trong tuần qua lên mức cao nhất kể từ 25/7 trong phiên cuối tuần.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá 13/8
|
Giá 20/8
|
Giá 20/8 so với 19/8
|
Giá 20/8 so với 19/8 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
44,49
|
48,57
|
+0,35
|
+0,73%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
46,97
|
50,88
|
-0,01
|
-0,02%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
28.430,00
|
30.490,00
|
-240,00
|
-0,78%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,60
|
2,58
|
-0,09
|
-3,37%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
137,09
|
151,29
|
+2,32
|
+1,56%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
140,86
|
151,58
|
-0,38
|
-0,25%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
409,50
|
441,50
|
-0,75
|
-0,17%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
40.870,00
|
43.040,00
|
-360,00
|
-0,83%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.343,20
|
1.346,20
|
-11,00
|
-0,81%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.335,00
|
4.313,00
|
-16,00
|
-0,37%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
19,72
|
19,31
|
-0,43
|
-2,20%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
64,00
|
62,00
|
-0,90
|
-1,43%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.123,25
|
1.114,30
|
-16,45
|
-1,45%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
687,00
|
711,50
|
-0,71
|
-0,10%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
215,15
|
217,75
|
-0,10
|
-0,05%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.761,00
|
4.798,00
|
-11,00
|
-0,23%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.655,00
|
1.667,00
|
-16,00
|
-0,95%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.238,50
|
2.286,00
|
-9,50
|
-0,41%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
18.195,00
|
18.540,00
|
+150,00
|
+0,82%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
333,00
|
343,75
|
+1,75
|
+0,51%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
440,00
|
444,75
|
+0,50
|
+0,11%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
181,25
|
184,50
|
+0,75
|
+0,41%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,66
|
10,31
|
-0,01
|
-0,10%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
981,75
|
1.004,50
|
-10,00
|
-0,99%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
327,80
|
325,50
|
-5,70
|
-1,72%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,45
|
34,56
|
-0,05
|
-0,14%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
461,40
|
469,20
|
+0,70
|
+0,15%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.981,00
|
3.099,00
|
-14,00
|
-0,45%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
140,35
|
141,60
|
+0,15
|
+0,11%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,71
|
19,77
|
-0,21
|
-1,05%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
180,95
|
180,20
|
+2,75
|
+1,55%
|
Bông
|
US cent/lb
|
70,65
|
68,03
|
-0,98
|
-1,42%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
324,10
|
322,30
|
+2,00
|
+0,62%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
157,60
|
157,00
|
0,00
|
0,00%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,41
|
1,47
|
+0,02
|
+1,31%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet