Hàn Quốc hiện là một trong đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Năm 2024, Việt Nam xuất khẩu 25,6 tỷ USD, nhập khẩu 55,9 tỷ USD Mỹ từ Hàn Quốc, đồng thời cũng là thị trường xuất khẩu tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt.
Những lợi thế cần tận dụng
Đó là thông tin được các chuyên gia đưa ra tại Hội thảo “Thúc đẩy hợp tác thương mại Việt Nam với Nhật Bản và Hàn Quốc trong giai đoạn mới” do Trung tâm Hội nhập quốc tế, Viện Nghiên cứu phát triển TP. Hồ Chí Minh tổ chức mới đây tại TP. Hồ Chí Minh.
Đại diện Vụ Phát triển thị trường nước ngoài (Bộ Công Thương) cho biết, Hàn Quốc hiện là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam (sau Trung Quốc và Mỹ), là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 và thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam. Năm 2024, Việt Nam xuất khẩu 25,6 tỷ USD, nhập khẩu 55,9 tỷ USD Mỹ.
Số liệu từ Cục Hải quan cho thấy, trong 10 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hàn Quốc vượt 23,8 tỷ USD, tăng 12,37% so với cùng kỳ năm trước.
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tiếp tục là nhóm dẫn đầu với 7,04 tỷ USD; trong khi điện thoại và linh kiện đạt 3,29 tỷ USD, giữ vững vị trí nhóm hàng xuất khẩu chủ lực tại thị trường Hàn Quốc.
Bên cạnh các mặt hàng chủ lực, theo các chuyên gia, mặt hàng dệt may, nông sản và thực phẩm chế biến cũng đang có nhiều tiềm năng trong xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc.
Bà Trần Kim Chi – Vụ Phát triển thị trường nước ngoài, Bộ Công Thương cho biết, các Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc đang tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy thương mại hai nước. Trong đó, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA) với việc xóa bỏ thuế cho 92% dòng thuế, tạo lợi thế cho hàng dệt may và nông sản Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc.
Điển hình, VKFTA giảm thuế nhập khẩu dệt may từ 12% xuống còn 0%, giúp hàng dệt may của Việt Nam tăng khả năng cạnh tranh với Trung Quốc, Bangladesh tại thị trường Hàn Quốc. Năm 2024, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hàn Quốc đạt 4,2 tỷ USD, chiếm 23% tổng hàng hóa xuất khẩu. Trong 10 tháng năm 2025, xuất khẩu mặt hàng này sang Hàn Quốc đạt 2,53 tỷ USD.
Ngoài ra, với 51 triệu dân và thu nhập bình quân 36.000 USD/người (năm 2024), Hàn Quốc là thị trường tiềm năng cho thời trang chất lượng cao. Đồng thời, 65% người tiêu dùng Hàn Quốc sẵn sàng trả thêm cho sản phẩm thân thiện môi trường, tạo cơ hội cho sợi tái chế và vải hữu cơ. Do đó, Việt Nam cần tận dụng những lợi thế này để tăng thị phần trong lĩnh vực này, bà Trần Kim Chi nhấn mạnh.
Giữ vững vị thế trên thị trường Hàn Quốc
Theo ông Phạm Khắc Tuyên - Tham tán Thương mại, Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc, Hàn Quốc đang đẩy nhanh chiến lược xanh hóa, số hóa và siết chặt toàn diện các hàng rào kỹ thuật, đặt ra yêu cầu cao hơn đối với hàng hóa nhập khẩu.
Để thâm nhập và trụ vững tại thị trường này, doanh nghiệp Việt Nam cần vượt qua các rào cản then chốt gồm: hệ thống pháp lý và tiêu chuẩn kỹ thuật ngày càng khắt khe; các yêu cầu ESG (Môi trường – Xã hội và Quản trị) đã trở thành điều kiện bắt buộc; áp lực từ môi trường số hóa với đòi hỏi bản địa hóa sâu và xây dựng niềm tin trực tuyến; cùng vai trò "gác cổng" của hệ thống phân phối, với những yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn, logistics và kiểm nghiệm tại Hàn Quốc.
Song song đó, doanh nghiệp Việt Nam cần theo đuổi chiến lược dài hạn, thay vì cạnh tranh ngắn hạn về giá. Trọng tâm là nâng cao năng lực sản phẩm thông qua chất lượng ổn định, nghiên cứu và phát triển sản phẩm phù hợp khẩu vị; chủ động tuân thủ tiêu chuẩn bao bì thân thiện môi trường; đầu tư xây dựng thương hiệu hiện đại, đáng tin cậy; đồng thời phát triển quan hệ đối tác bền vững với khả năng phản hồi nhanh và giao tiếp chuyên nghiệp. Việc tham gia các hội chợ chuyên ngành tại Hàn Quốc được xem là kênh hiệu quả để tiếp cận trực tiếp và chọn lọc đối tác phù hợp.
Ngoài ra, theo ông Nguyễn Duy Kiên - Trưởng phòng Đông Bắc Á, và Nam Thái Bình Dương, Vụ Phát triển thị trường nước ngoài (Bộ Công Thương), đối với doanh nghiệp Việt Nam, cơ hội lớn nhất là tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn Hàn Quốc, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.
Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tránh các rủi ro gồm sự phụ thuộc quá lớn vào một khách hàng dẫn đến bị ép giá và thay đổi tiêu chuẩn đột ngột; thiếu đầu tư nâng cấp năng lực sản xuất, quản trị chất lượng và công nghệ; hạn chế về kỹ năng đàm phán, quản trị rủi ro hợp đồng và hiểu biết văn hóa kinh doanh.
Ông Nguyễn Duy Kiên lưu ý thêm, doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cấp năng lực theo lộ trình, từ cung ứng vật tư phụ và gia công đơn giản, tiến tới sản xuất linh kiện có hàm lượng công nghệ cao. Đối với Chính phủ và cơ quan quản lý, cần chuyển trọng tâm chính sách từ xúc tiến đầu tư truyền thống sang hỗ trợ chiến lược, thông qua các gói công cụ như hỗ trợ đạt chứng nhận kỹ thuật quốc tế, chuyển đổi số và tư vấn pháp lý.
Nguồn:thuehaiquan.tapchikinhtetaichinh.vn